Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

Không đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào hiến pháp mới


PGS,TS Vũ Trung-CVHP



NQL:Quê choa vẫn chủ trương không đăng bài trên các trang mạng, tuy nhiên những bài viết quá trúng ý bọ Lập thì không thể không đăng. Bài bác Vũ Trung đăng trên trang Cùng viết hiến pháp là một ví dụ. Những gì bác Vũ Trung nói bọ Lập cũng đã muốn nói từ lâu.
Trước hết cần xác định khái niệm chủ nghĩa Mác- Lênin.mà chúng tôi đề cập đến trong bài viết này.
Chủ nghĩa Mác-Lênin mà lâu nay chúng ta nhận thức và vận dụng được tiếp thu chủ yếu qua các tài liệu, sách vở của Liên xô cũ. Đến nay chúng ta đã thấy rằng, hệ thống lý luân mà ta gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là những tư tưởng của Mác,Ăng-gen thời còn trẻ, thể hiện tập trung trong tác phẩm “ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”(1848). Những tư tưởng này, vào những năm cuối đời, nhất là sau thất bại của Công xã Pa ri (1871)Mac và Ang-gen đã thấy không thích hợp với thực tiễn do đó hai ông, đặc biệt là Ang-gen đã điều chỉnh, sửa đổi theo xu hướng dân chủ xã hội, thể hiện trong tổ chức và hoạt động của Quốc tế II. Lênin đã bác bỏ xu hướng dân chủ xã hội của quốc tế II và lập ra Quốc tế III với nội dung giữ lại những tư tưởng thời trẻ của Mác Ăng-gen, chủ yếu tập trung trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, phát triển hơn nữa những tư tưởng này theo nhu cầu của cách mạng vô sản ở nước Nga. Những nhà yêu nước Việt nam đã chấp nhận chủ nghĩa Mac-Lênin , gia nhập Quốc tế III, chủ yếu và trước hết vì Quốc tế III ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.
Chúng tôi cho rằng, cần bỏ luận điểm về vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác lênin trong đời sống chính trị -xã hội của nước ta, được ghi trong Lời nói đầu và trong điều 4, nói về sự lãnh đạo của Đảng trong hiến pháp hiện hành (1992). vì những lý do sau đây:
Một là, qua quá trình phát triển cuả nhận thức , của lí luận chính trị xã hội ,qua sự khảo nghiệm của thực tiễn cách mạng ở nước ta cũng như trên , thế giới đã thấy rõ học thuyết Mác – Lênin ngay từ đầu đã có những luận điểm không đúng, hoặc có những luận điểm đã bị thực tiễn cách mạng diễn ra trong suốt một thế kỉ ở Liên xô và các nước thuộc hệ thống XHCN trong đó có nước ta là không còn phù hợp nữa.
Hai là, việc áp dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào công cuộc xây dựng CNXH ở miền bắc nước ta cũng như trên phạm vi cả nước sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ chẳng những không đem lại hiệu quả mà còn đưa đến những tổn thất kìm hãm nặng nề sự phát triển kinh tế xã hội. Trong những năm cuối thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước đứng trước tình hình đặc biệt khó khăn : nền kinh tế sa sút đình trệ , đời sống nhân dân thiếu đói kiệt quệ, chúng ta buộc phải thực hiện những đổi mới căn bản về kinh tế. Thực chất cuộc đổi mới này là từ bỏ những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lênin về kinh tế như xóa bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, chấp nhận nền kinh tế thị trường, cho phép phát triển kinh tế tư nhân, cho phép các nhà doanh nghiệp được thuê nhân công( không giới hạn về số lượng lao động và qui mô kinh doanh)v.v. Cuộc đổi mới đó đã cứu đất nước ta thoát khỏi nạn đói và đạt những tiến bộ rõ rệt. Nhưng do sự giới hạn của nhận thức về con đường đi lên CNXH chúng ta chỉ mới tiến hành những đổi mới trên lĩnh vực kinh tế mà rất ngần ngại dè dặt tiến hành những đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Chúng ta cho rằng, đổi mới chính trị là một vấn đề rất nhậy cảm “ chỉ một bước xẩy chân có thể đưa đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống” như tình hình đã diễn ra ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Chính vì thế mà sự đổi mới về kinh tế vẫn còn chắp vá và không triệt để vẫn chưa khắc phục được những sai lầm đem lại tổn thất( thái độ và cách sử lý đối với thành phần kinh tế quốc doanh), mặt khác chúng ta chưa có những đổi mới chính trị,vẫn luyến tiếc hệ thồng chính trị theo “ mô hình Xô Viết” vì vậy cho đến nay, tuy chúng ta vẫn giữ được sự ổn định chính trị nhưng thực tế ngày càng chứng tỏ đó chỉ là sự ổn định bề ngoài, một sự ổn định chứa đầy mâu thuẫn. Những mâu thuẫn naỳ đã dần dần đẩy ta lâm vào “ một cuộc khủng hoảng toàn diện sâu sắc đe dọa sự tồn vong của Đảng và của chế độ”(phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng) Nếu ta vẫn bám giữ học thuyết đã lỗi thời mà loài người, trong đó có một bộ phận quan trọng là Liên xô và các nước XHCN Đông Âu đã dứt khoát từ bỏ, nếu ta vẫn cố níu giữ “ cái vòng kim cô” trên đầu và cái “ mai rùa” trên lưng.tức là lý luận Mác –Lênin và mô hình chính trị xã hội Xô Viết thì chúng ta không thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng vô cùng trầm trọng hiện nay, càng không thể nói đến việc hoạch định con đường đi đến tương lai, hòa mình vào dòng chảy của nền văn minh nhân loại, mãi mãi bị giam hãm, thậm chí ngày càng lún sâu trong vòng yếu kém lạc hậu.
Ba là,với tư cách là một chính đảng được nhân dân giao cho quyền lãnh đạo xã hội, đảng Cộng sản Việt Nam không thể tự giới hạn mình vào một chủ thuyết, nhất là chủ thuyết đó là một hệ thống lý luận đã bộc lộ nhiều điểm không chính xác đã từng dẫn đến những sai lầm và tổn thất trong hoạt động thực tiễn .Việc khẳng định vai trò chủ đạo mà thực sự là độc tôn của chủ nghĩa Mac-Lênin trong đời sống xã hội đã cản trở chúng ta tiếp thu và vận dụng những thành quả to lớn của nhận thức loài người trong đó có những học thuyết về kinh tế xã hội do nhiều nhà khoa học kiệt xuất sáng tạo nên và được cả loài người công nhận trong những năm gần đây. Một mặt khác điều đó cũng cản trở việc thu hút, tập hợp một cách rộng rãi tất cả mọi lực lượng trong xã hội, thực hiện một cuộc hòa giải hòa hợp dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao vị thế và sức mạnh của dân tộc.Bất kỳ xã hội nào, nhất là những xã hội văn minh, hiện đại phải là sự thống nhất của cái da dạng, sự tập hợp và phát huy mọi lực lượng xã hội không phân biệt lực lượng ấy theo chủ thuyết nào, thậm chí hệ tư tưởng nào. Đối với chúng ta, sự tập hợp đó được thực hiện chỉ trên một cơ sở duy nhất : Đó là tình yêu đối với tổ quốc , sự tôn trọng hiến pháp và pháp luật, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc, cùng chung long góp sức một nước Việt Nam giầu mạnh, công bằng dân chủ và văn minh. Một thói xấu của người Cộng sản mà chính Lê-nin đã nhiều lần phê phán là bệnh “kiêu ngạo Cộng sản” luôn cho rằng chỉ có mình mới đúng, mới yêu nước, mới cách mạng. Ngày nay chúng ta đã nhận ra rằng “ lòng yêu nước cũng có nhiều hình thức và con đường khác nhau.”
Bốn là, việc tuyên truyền phổ biến chủ nghĩa Mác-Lênin như một hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội đặc biệt là việc giảng dạy, giáo dục chủ nghĩa Mác –Lênin cho thế hệ trẻ trong nhà trường chẳng những không đem lại kết quả tốt đẹp , mà còn gây ra những hệ quả tiêu cực. Thế giới ngày nay là một thế giới phẳng, các kênh thông tin đa dạng phong phú, đặc biệt là hệ thống thông tin mạng toàn cầu( riêng nước ta hiện nay đã có hơn 30 triệu máy vi tính đang hoạt động) đem lại cho con người những hiểu biết đa chiều, phong phú chứ không chỉ giới hạn qua những kênh thông tin “chính thức” của nhà nước cũng như qua hoạt động giảng dạy trong nhà trường. Nhiều người trong đó có thế hệ trẻ đã thấy hệ thống lý thuyết Mác-Lênin không phù hợp với đời sống hiện thực, từ đó nhận ra trong xã hội vẫn tồn tại phổ biến tình trạng lý luận xa rời , thậm chí đối lập với thực tiễn, trái với những điều người ta được mắt thấy tai nghe trong đời sống. Nhiều học giả có quá trình nghiên cứu giảng dạy lý luận Mác- Lênin, có uy tín cao về trình độ khoa học, về phẩm chất đạo đức cũng phải thừa nhận rằng: “Trong bao năm qua chúng ta đã lừa dối mọi người và lừa dối chính mình”( xem bài phát biều của Giáo sư Trần Phương,nguyên ủy viên TƯ Đảng nguyên phó thủ tướng chính phủ, chủ tịch hội kinh tế Việt Nam trong cuộc hội thảo góp ý kiến cho cương lĩnh đại hội Đảng lần thứ X1) Điều đáng buồn và cũng đáng lo ngại là bản thân những người dạy môn lý luận Mac-Lênin nhiều khi cũng không tin vào những điều mình rao giảng nhưng vẫn phải cố hoàn thành bài giảng theo yêu cầu của chương trình. Về phía người học cũng đã thấy rõ những điều thầy trình bày thiếu sức thuyết phục nhưng vẫn cứ phải nghe, phải học cho thuộc và trả bài cho “ đúng”. Họ ngộ ra rằng: Thầy giáo, báo đài, thậm chí cả một số nhà lãnh đạo “ nói vậy mà không phải vậy!”. Đó chính là căn nguyên của bệnh lừa dối ngày càng lan tràn và trở thành một lối sống của xã hội ta hiện nay. Từ đó càng làm giảm sút niềm tin đối với Đảng và nhà nước .
Chúng ta không vội vã bắt chước nhưng cũng cần bình tĩnh, tỉnh táo xem xét thái độ và cách sử lí của loài người trong đó có những nước vốn đã từng đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể cả Trung quốc đối với chủ nghĩa Mac-Lênin để lựa chọn cho mình những giải pháp thích hợp và hiệu quả ..

      Hà nội ngày 15 tháng 3 năm 2013

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Phạm Duy và Tố Hữu 
(Khương Duy)
Mẹ tôi kể rằng khi tôi còn chưa biết đọc, biết viết mẹ đã dạy tôi học thuộc những câu thơ Tố Hữu, để rồi khi mẹ lúi húi trong vườn sắn, tôi ngồi vắt vẻo trên tảng đá nghêu ngao đọc:
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải
đẹp tươi lạ thường
Nhớ
Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên
đường suối reo

Mẹ thuộc rất nhiều thơ Tố Hữu. Từ những bài thơ dễ thuộc, dễ nhớ nhưBà bủ, đến những bài thơ mang âm hưởng truyện thơ như Bà má Hậu Giang; từ những bài thơ hừng hực lửa nhiệt thành như Hãy nhớ lấy lời tôi,đến những bài thơ nghẹn ngào đau thương như Bác ơi… mẹ đều thuộc nằm lòng. Giọng đọc của mẹ say sưa, ấm áp đã khiến những vần thơ Tố Hữu ngấm vào tâm hồn tôi như thể người ta ăn cơm uống nước để sống và lớn lên.
Tôi vẫn còn yêu thơ Tố Hữu cho đến mãi hôm nay, dù rằng khi lớn lên tôi biết được nhiều câu thơ khác của Tố Hữu không được hay như những câu thơ mẹ đã dạy tôi thủa thiếu thời. Tiếng đầu lòng con gọi Stalin. Có yêu thơ Tố Hữu đến nhường nào, tôi cũng nuốt không trôi những câu thơ nhưthế. Và khi đã biết lắng nghe bằng cả hai tai, tôi còn vỡ lẽ ra rằng bên cạnh một Tố Hữu thi sĩ với hồn thơ dâng trào như sóng cuộn biển Đông còn có một ông quan văn hóa Tố Hữu, người đã trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới một giai đoạn buồn của nền văn nghệ nước nhà với những tiêu án chẳng biết bao giờ sáng tỏ như Nhân văn – Giai phẩm. Ban đầu tôi còn hồ nghi, hay đúng hơn tôi không muốn hình ảnh nhà thơ Tố Hữu màtôi hằng yêu quý tan vỡ. Nhưng càng đọc nhiều, càng suy ngẫm nhiều, tôi buộc lòng phải chấp nhận sự thật đó. Tôi tự an ủi mình rằng một khi cóquyền lực trong tay, dẫu là nhà thơ cũng khó có thể giữ cho mình thánh thiện…
Phạm Duy
Phạm Duy
Ngược lại với Tố Hữu, tôi biết đến Phạm Duy muộn hơn nhiều. Khi tôi học lớp 11, một thầy ở Viện Ngôn ngữ học khi về Phú Thọ dạy đội tuyển Tiếng Anh đã nói tên tôi giống Phạm Duy. Có biết nhạc sĩ Phạm Duy là ai không? Thầy hỏi và tôi lắc đầu. Thầy chỉ cười. Đợt học đó thầy còn nhắc tới Phạm Duy với tôi một vài lần nữa. Tôi chỉ có thể đọc được trong ánh mắt của thầy một niềm trân trọng nhưng dường như cũng pha chút mỉa mai nào đó. Giọng nói và nụ cười của thầy như thể muốn hé mở cho tôi biết rằng nhân vật mà thầy nhắc đến phức tạp và thú vị vô cùng.
Đương nhiên hôm nay tôi đã có thể trả lời câu hỏi của thầy, bởi tôi đã biết Phạm Duy là ai. Và nếu thầy thực sự thích nhạc Phạm Duy, tôi có thể nói chuyện cùng thầy cả ngày về gia tài âm nhạc đồ sộ mà bài nào cũng lấp lánh như những viên sỏi nơi đáy nước của ông. Nhưng có lẽ tôi chẳng bao giờ còn gặp lại thầy, và nếu có thì cũng đã quá muộn bởi người nhạc sĩthiên tài ấy đã mãi mãi ra đi…
***
Đến đây, tôi muốn nói về mối tương liên giữa Phạm Duy và Tố Hữu, điều tôi đã nhận thấy từ khi bắt đầu biết nghe nhạc Phạm Duy, nhưng phải sau khi ông đi về cõi vĩnh hằng, tôi mới thấm thía và ngộ ra những điều xưa kia mình chỉ mơ hồ cảm nhận thấy. Mối tương liên ấy, nhiều người bất nhẫn hẳn sẽ cho là điều hoang đường bởi hai con người ấy có hai số phận hoàn toàn khác nhau, ngoại trừ việc họ đều là nghệ sĩ. Nhưng trên đời này, nghệ sĩ cũng có năm bảy đường, và con đường mà Phạm Duy và Tố Hữu đã chọn lại quá khác xa nhau. Nhưng hãy bình tâm và tạm quên đi cái lằn ranh về ý thức hệ vốn đã làm cho đất nước này quằn quại dưới khói lửa chiến tranh mấy mươi năm, bạn sẽ cảm nhận được ở hai ông những điểm chung mà dẫu có muốn xóa nhòa cũng không thể nào xóa nổi.
Tố Hữu sinh năm 1920, chỉ trước Phạm Duy một năm. Chẳng những làngười cùng thời mà trong suốt mấy mươi năm sống và viết, nếu như Tố Hữu trở thành cây đại thụ của nền nghệ thuật cách mạng miền Bắc thì Phạm Duy là ngôi sao sáng chói trên bầu trời nghệ thuật miền Nam. Giờ đây, khi non sông đã liền một dải thì hai ông xứng đáng được nhắc đến như hai nghệ sĩ đã bằng âm nhạc và thơ ca của mình vô tình chung tay dệt nên bức tranh đầy đủ màu sắc kể về số phận dân tộc suốt nửa sau thế kỷ XX.
Nói về thơ Tố Hữu, dẫu là người ghét ông hay yêu ông, cũng không thể nào phủ nhận được rằng, sau Nguyễn Du, Tố Hữu là một trong những nhàthơ lớn nhất của dân tộc, với tài năng đưa tiếng Việt vào thơ thành công ít ai sánh kịp. Với sức viết không mệt mỏi suốt gần một hoa giáp kể những ngày còn là chàng thanh niên Nguyễn Kim Thành, cho tới những dòng tâm sự cuối cùng của một ông lão tuổi ngoại bát tuần, thơ Tố Hữu vẫn dạt dào tuôn chảy như một dòng suối đã khơi nguồn là chảy một mạch cho tới tận cùng. Ông thành công ở nhiều thể loại thơ nhưng đặc biệt để lại dấu ấn với thể thơ lục bát. Thơ lục bát của Tố Hữu giản dị, hồn hậu nhưng cũng không kém phần trong sáng, thanh cao. Nhiều câu thơ Tố Hữu nếuđặt cạnh Truyện Kiều sẽ khó có thể nhận ra; lại có những câu thơ lẫn vào trong ca dao như tiếng hồn cha ông tự thủa nào. Trải dài với bảy tập thơ, Tố Hữu đã bền bỉ dùng tiếng Việt để diễn tả nhiều cung bậc của cảm xúc riêng – chung.
Có lúc, đó là những câu thơ ngậm ngùi cho thân phận người con gái giang hồ buôn mái chèo trên sông Hương:
Đời em buông chiếc thuyền nan xuôi dòng
Thuyền em rách nát
Mà em không chồng
Có lúc, đó là những câu thơ hào sảng như một dòng thác bất tậng vui say chiến thắng Điện Biên lừng lẫy:
 Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn! 
Có lúc, đó là những lời thơ tình tứ, ngọt ngào đằm thắm ca ngợi tình yêuđôi lứa:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Có lúc, đó là những câu thơ chất chứa nỗi đớn đau uất nghẹn vì nỗi mất mát quá lớn:
Đã mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Những ai không ưa thơ Tố Hữu vì điểm này hay điểm khác vốn chẳng mấy khi liên quan tới thơ ông, hãy trả lời thật lòng rằng những câu tôi trích ra trên đây lẽ nào không phải là thơ, và lẽ nào không phải là thơhay. Công bằng mà nói, có người chê thơ Tố Hữu nặng tính tuyên truyền, nhưng thử hỏi suốt mấy mươi năm có ai làm thơ tuyên truyền hay bằng Tố Hữu.
Xuân Diệu, Huy Cận trước 1945 làm mưa làm gió trên thi đàn nhưng viết thơ cách mạng thì dở đến mức chẳng ai muốn nhắc tới. Quả sấu non trên cao, Đoàn thuyền đánh cá là những thí dụ nhãn tiền. Nói về chính trị vàtình yêu đều nồng nàn, say đắm như nhau. Nói về lý tưởng mà ngọt ngào như viết tình thư. Nói về lãnh tụ mà ngỡ như con viết tặng cha. Nói về mẹViệt Nam mà như nói về mẹ của riêng mình… Chỉ có thể là tâm hồn thơđặc biệt của Tố Hữu, tưởng như là điểm yếu nhưng hóa ra lại là tài năng trác tuyệt của ông.
Cá nhân tôi nhận thấy thơ Tố Hữu là sản phẩm của một trí tuệ thơ vô tiền khoáng hậu, tôi sẽ không ngại ngần xếp Tố Hữu vào bảng vàng ghi danh những thi sĩ xuất sắc bậc nhất của lịch sử văn chương Việt Nam.
Còn Phạm Duy, người nhạc sĩ tài hoa đã một thời theo Việt Minh rồi chịu không nổi những gông cùm về tư tưởng rồi dinh-tê rồi vào Nam. Phải nói thêm rằng, trong hồi ký của mình, chính Phạm Duy đã thấp thoáng hémở rằng một phần hiện thân của những gông cùm ấy chính là Tố Hữu – người có quyền cầm cân nảy mực gần như tối cao trong về tư tưởng văn hóa nghệ thuật trong suốt mấy mươi năm. Chuyến đò vĩ tuyến đã đưa Phạm Duy sang một chân trời khác, nơi ông có thể tự do tự viết lên những bản nhạc tình say đắm lòng người mà không còn sợ ai dèm pha, và kể cảkhi có người dèm pha (như trường hợp bài Kỷ vật cho em) thì cũng không ai có đủ thẩm quyền để phê bình ông, để ngăn cấm ông, để ép ông từ bỏnhững đứa con tinh thần của mình; điều mà Phạm Duy không thể cóđược nếu ông ở lại miền Bắc.
Quyết định đi tìm tự do trong nghệ thuật đã đẩy Phạm Duy sang bên kia chiến tuyến với Tố Hữu. Nhưng trớ trêu thay, hai con người như nước với lửa trên lập trường chính trị ấy lại giống nhau đến lạ kỳ trong nghệ thuật. Cái âm hưởng dồn dập, da diết, trào tuôn trong thơ Tố Hữu cũng hiện hữu trong âm nhạc Phạm Duy. Hơn thế nữa, Phạm Duy cũng là người cóbiệt tài với tiếng Việt, ông đặt lời, phổ thơ điêu luyện như một nghệ nhân bậc thầy. Nhạc của ông đã đưa âm nhạc Việt Nam lên một tầm cao mới hiện đại mà không lìa thoát cái âm giai ngũ cung ngọt ngào da diết.
Đặc biệt, lời nhạc của ông bên cạnh những ca từ mới mẻ, phá cách, phần nhiều là những lời đậm đà hương vị dân ca. Hãy lắng nghe tiếng lòng ông trải rộng trongTình ca:
Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói mặn mà có duyên
Và tình tứ như một lời hát giao duyên trong Đố ai:
Đố ai mấy tuổi trăng già
Để em lên tiếng mặn mà yêu anh
Phạm Duy mang cả một dải Việt Nam vào trường ca Con đường cái quan với những hình ảnh đẹp như trong cổ tích:
Năm tê trong lúc sang Xuân
Tôi theo Công Chúa Huyền Trân tôi lên đường
Ðường máu xương đã lắm oán thương
Ðổi sắc hương lấy cõi giang san
Tôi đi theo bước ái tình
Ði cho trăm họ được hòa bình ấm no
Ðèo núi cao nghe gió vi vu
Thổi phấn son bay tới kinh đô
Hồn dân tộc thấm đãm trong từng nốt nhạc, lời thơ là điều mà Phạm Duy và Tố Hữu giống nhau. Chỉ cần lắng nghe cách đưa những tiếng địa phương, những tên gọi của từng vùng miền đất nước vào thơ vào nhạc đãcó thể thấy chất dân gian đã được hai ông cùng vận dụng sáng tạo và nhuần nhuyễn đến mức nào.
Không chỉ thế, dù bằng những cách tiếp cận khác nhau theo những ý thức nghệ thuật khác nhau nhưng chủ đề trong thơ Tố Hữu và nhạc Phạm Duy nhiều khi rất tương đồng. Con đường cái quan của Phạm Duy lẽ nào không có chút gì đồng điệu với Nước non ngàn dặm của Tố Hữu? Bà mẹquê và Bà bủ lẽ nào không phải đều là những hình ảnh đẹp đến nao lòng về người mẹ Việt Nam? Trong thơ Tố Hữu và nhạc Phạm Duy tình yêu riêng và tình yêu chung hòa quyện với nhau khéo léo đến bất ngờ, vàcũng chỉ có hai ông mới có cái biệt tài luyến láy giữa cái riêng với cái chung có duyên đến thế.
Và trên hết, Phạm Duy và Tố Hữu đều là những người đều yêu tiếng Việt và dành trọn cuộc đời nghệ thuật của mình để tô điểm cho tiếng Việt, đẩy thơ và nhạc dùng tiếng Việt lên đến đỉnh cao. Thơ Tố Hữu, nhạc Phạm Duy giống như hai mảnh ghép tưởng như khập khiễng nhưng khi ghép lại sẽ giúp chúng ta thấu hiểu tiếng lòng của con người Việt Nam trong thếkỷ XX bị cách ngăn bởi một dòng sông vĩ tuyến với đầy đủ cung bậc hờn giận yêu thương,vừa lớn lao, lộng lẫy mà rất đỗi gần gũi, chân thành…
Xin được nói thêm rằng ở thơ và nhạc của hai ông, người đọc người ngheđều thấy hiện lên sự nhiệt thành, sự cuộn chảy của cảm xúc mà tôi tin đólà cảm xúc thật sự của người nghệ sĩ.
Tố Hữu viết thơ bằng trái tim sục sôi của người chiến sĩ cộng sản, trái tim lớn không sợ gì súng đạn. Dẫu tôi hôm nay đã không còn giữ được sựnhiệt thành ngày nào khi nghe mẹ đọc Hãy nhớ lấy lời tôi, và sự hoài nghi trong lòng tôi với quá khứ ngày một lớn hơn, nhưng tôi luôn trân trọng những gì là cảm xúc chân thành của con người. Người ta có thể hoài nghiý nghĩa của một cuộc chiến tranh nhưng không được phép hoài nghi sựdũng cảm của người chiến sĩ. Tố Hữu khi viết những dòng như thác lũ ca ngợi chiến thắng Điện Biên lẽ nào ông lại không vui sướng, khi viết những dòng quặn thắt lòng người khi Hồ Chủ tịch lẽ nào ông lại không đớn đau? Tôi tin rằng thơ không nói dối cảm xúc của con người. Khoan hãy bàn đếnđúng sai tốt xấu mà hãy hiểu rằng ở thời điểm đó, ở tâm thế đó Tố Hữuđang bằng tình yêu thiêng liêng, và cảm xúc chân thành viết ra những dòng thơ lai láng và chứa chan tình cảm ấy. Chỉ có rung cảm chân thành mới giúp cho chất thơ mới tuôn chảy đầu ngọn bút không một chút ngập ngừng như thế.
Còn Phạm Duy, hẳn không cần phải nói thêm bởi những ai từng nghe nhạc của ông đều dễ dàng cảm nhận sự dâng trào của cảm xúc trong ca khúc của ông mạnh mẽ đến nhường nào. Dẫu đó là tình yêu lứa đôi hay tình yêu đất nước, Phạm Duy đều viết lên những nốt nhạc lời ca bằng cảtrái tim giàu rung cảm của mình. Giết người đi, giết người trong mộng vẫnđi về. Ngày mai đi nhận xác chồng, say đi để thấy mình không là mình. Tôi yêu những sông trường, biết ái tình ở dòng sông Hương, sống no đầy là nhờ Cửu Long, máu sông Hồng đỏ vì chờ mong… Những lời ca nồng nàn, dạt dào như thế lẽ nào không phải do cảm xúc chân thật mà thành.Đọc thơ của Tố Hữu và nhạc của Phạm Duy người ta thấy cảm xúc được giải phóng mãnh liệt, cảm xúc như thoát khỏi trái tim chật hẹp, tìm được tự do thoải mái vùng vẫy dọc ngang.
Nói đến tự do, tôi cho rằng Tố Hữu cũng yêu tự do lắm chứ, một người đã từng nghe hè dậy bên lòng, mà chân muốn đạp tan phòng mà ra thì lẽnào lại không yêu tự do? Vậy mới thấy tự do hóa ra là thứ tương đối. Phạm Duy không tìm được tự do cho mình dưới trời miền Bắc nhưng TốHữu lại như cá được nước, như chim trời được chắp cánh tung bay. Cho nên thơ Tố Hữu dẫu nhiều câu là thơ ”đường lối” mà nghe sao vẫn nhẹnhàng, thanh thoát, khoáng đạt đến diệu kỳ. Chỉ tiếc Tố Hữu sinh thời cólẽ đã không hiểu rằng cái khuôn khổ và hình thức tự do mà Phạm Duy cần rộng hơn thế thứ tự do mà ông có thể chấp nhận rất nhiều…
***
Phạm Duy đã có lần nói rằng suốt cả cuộc đời viết nhạc của mình, ông luôn khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, khi đất nước vui ông cũng vui, khi đất nước buồn ông cũng buồn. Chính vì thế trong kho tàng tác phẩmđồ sộ để lại, Phạm Duy đã khắc họa đầy đủ những biến động của đất nước trong suốt hơn nửa thế kỷ. Đất nước trong nhạc của ông trải từ gấm hoađẹp đẽ đến mất mát tang thương và khi ông rời bỏ quê nhà thì đất nước chỉ còn là quê hương hoài niệm. Cái nổi trôi của đất nước từ núi rừng đầy hoa bỗng thành chiến trường cũng là cái nổi trôi của cuộc đời Phạm Duy, từ một chàng trai Hà Thành tài hoa do cuộc li loạn mà đã dạt trôi vào Sài Gòn rồi bỏ nước ra đi, để rồi mấy mươi năm sau, tha thiết nhớ quê hươngông lại trở về với đất mẹ…
Tố Hữu cũng vậy. Cuộc đời Tố Hữu với bảy tập thơ lớn trải dài theo bướcđường lịch sử dân tộc được coi như tập nhật ký bằng thơ của những chặngđường cách mạng Việt Nam. Soi mình vào thơ Tố Hữu, có thể thấy hiển hiện lên cả một thời máu và hoa, vinh quang và gian khổ. Từ những ngàyđầu tiên giác ngộ cách mạng, cho đến khi cách mạng thành công, rồi lên Việt Bắc lập chiến khu và trở về bước vào cuộc chiến hai mươi năm xẻ dọc Trường Sơn. Để đến cuối đời, những gì còn lại là nỗi trăn trở với thế sự, về cái mới và cái cũ, về cái còn và cái mất.
Tố Hữu và Phạm Duy phải chăng đều đã gặp nhau ở đây, khi mà hai ông đều biến cuộc đời mình thành thơ thành nhạc, hòa chung vào mệnh nước để viết lên những tác phẩm có tính tiêu biểu cho cả một thời đại.
***
Số phận của nhạc Phạm Duy và thơ Tố Hữu tưởng khác nhau nhưng thực ra lại rất giống nhau, bởi lẽ vừa có lắm vinh quang những cũng phải chịu quá nhiều cay đắng.
Hãy nói về nhạc của Phạm Duy trước. Dẫu là một nhạc sĩ nổi tiếng với những tác phẩm đỉnh cao nhưng số phận các tác phẩm của ông lại hết sức chìm nổi long đong. Cũng bởi những ca khúc như Bên cầu biên giới không được cách mạng chấp nhận nên ông đã cảm thấy mình cần phải rađi, để rồi thành danh ở bên kia vĩ tuyến 17. Nhạc Phạm Duy đã trở thành biểu tượng của âm nhạc Sài Gòn, đến mức những người Sài Gòn bỏ nước ra đi sau cuộc chiến đã ngậm ngùi nhớ tiếc:
Đâu Phạm Duy với tình ca sầu
Mắt lệ rơi khóc thủa ban đầu
Được yêu mến là thế, nhưng cũng có lúc ông đứng giữa hai làn đạn, vì ởphía bên kia cũng có người cho rằng nhiều ca khúc của ông như Kỷ vật cho em, Tưởng như còn người yêu quá đau thương, sầu thảm khiến cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa mất đi tinh thần chiến đấu. Phạm Duy đãtrả lời rằng, nếu như chỉ mấy câu hát mà đủ sức làm cho cả đoàn quân nhụt chí thì lỗi là ở quân sĩ chứ đâu phải ở lời ca? Tôi tâm đắc với ý kiến này và sẽ còn trở lại khi có dịp bàn về quan điểm quản lý nghệ thuật hiện nay.
Sau năm 1975 nhạc của Phạm Duy trở thành nhạc cấm, ngoại trừ những ca khúc được hát ở hải ngoại thì tuyệt đại đa số không được chính thức phổ biến trong nước. Đương nhiên, khó có thể cản dòng chảy của âm nhạc, nên dù không được cấp phép nhưng nhiều tác phẩm của ông vẫn vang lên bền bỉ suốt mấy mươi năm ông vắng nhà. Nhưng là một người nhạc sĩ, nhìn những đứa con tinh thần của mình phải sống cuộc đời ngoài vòng pháp luật, dẫu được người nghe yêu mến nhưng danh chưa chính, ngôn chưa thuận thì làm sao không đau lòng. Hơn nữa, một khi chưađược chính quyền công nhận thì sức truyền bá của những tác phẩm ấy cũng chưa thể cao xa như lẽ ra chúng phải thế.
Có lẽ vì vậy, trong những năm cuối đời, Phạm Duy vẫn luôn mong muốn ngày càng nhiều tác phẩm của ông được cấp phép. Ông nhẩm tính rằng, cho tới nay chỉ có 1/10 số nhạc phẩm của ông được nhà nước cho lưu hành, vậy thì phải mất 100 năm nữa họa chăng nhạc của ông mới được giải phóng hoàn toàn khỏi cơ chế kiểm duyệt khắt khe. Phạm Duy đauđáu nỗi niềm rằng trong cả ngàn ca khúc của ông, có vô số bài ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình yêu đất nước, chẳng hề dính dáng tới chính trị, nên nếu như để mai một sẽ đáng tiếc vô cùng. Nhưng biết làm sao được khi cho tới gần đây, ca khúc bất hủ Mùa thu chết mới được cấp phép, vì bao năm qua người ta vẫn dè chừng ca khúc này vì cho rằng Phạm Duy nhạo báng Cách mạng tháng Tám… Với lối tư duy nghi kỵ như thế thì biết đến khi nào nhạc của ông mới đến được với công chúng trọn vẹn?
Số phận thơ Tố Hữu thoạt nhìn tưởng chừng như khác hẳn với số phận nhạc Phạm Duy. Đã có một thời, từ học sinh tiểu học cho tới sinh viên đại học đều học thơ Tố Hữu. Các đề thi từ tốt nghiệp phổ thông cho tới tuyển sinh đại học, và cả thi học sinh giỏi quốc gia môn Văn đều phải ít nhiều nhắc tới thơ Tố Hữu. Nhưng trong những năm gần đây, sự hiện hiện của thơ Tố Hữu bỗng trở nên thưa thớt dần. Có người nói thơ Tố Hữu đang gặp hạn.
Thực ra, nếu nhìn thẳng vào sự thật thì thơ Tố Hữu đã gặp hạn từ lâu. Biết bao nhiêu giáo viên dạy Văn khi giảng thơ Tố Hữu đều giảng như giảng chính trị, thậm chí nhiều thầy cô không ngại tỏ ra chán chường. Giới phêbình từ lâu không còn mặn mà với thơ Tố Hữu. Người ta nửa công khai chê thơ Tố Hữu rằng đó là thơ tuyên truyền, thơ chính trị, không có giátrị nghệ thuật.
Vậy hóa ra bao nhiêu lâu nay người ta ca ngợi thơ Tố Hữu chỉ bằng sáo ngữ, người ta truyền bá thơ Tố Hữu giống như truyền bá một thứ nghịquyết, một kiểu tự nguyện trên tinh thần bắt buộc. Người ta bằng mặt nhưng không bằng lòng với thơ Tố Hữu. Hóa ra, thơ ông vào thời hoàng kim được trọng vọng vì phù hợp với chủ trương, đường lối và bởi ông làỦy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tương đương PhóThủ tướng). Thắm lắm phai nhiều, nhất là khi sắc thắm đó nhiều phần làgiả tạo. Cho nên khi văn nghệ được cởi trói, người ta lập tức đối xử lạnh nhạt với thơ Tố Hữu, coi nó như cái gì lỗi thời, lỗi mốt, và thơ Tố Hữu nửa chính thức xuống giá trong lòng công chúng.
Về điểm này Phạm Duy có phần còn may mắn hơn Tố Hữu. Nhạc Phạm Duy bị cấm nhưng có triệu triệu khán giả thầm yêu, trong khi thơ Tố Hữuđược tôn vinh bằng những lời chót lưỡi đầu môi, còn người thực sự trân trọng thơ ông đã và đang dần rơi rụng.
Tôi xin nói rằng thái độ của chúng ta với nhạc Phạm Duy và thơ Tố Hữuđều là bất công. Những người ngồi xét duyệt công bố từng tác phẩm của Phạm Duy chỉ là hàng con cháu của ông, cả về tài về đức đều chẳng xứngđáng để người nghệ sĩ tài hoa của dân tộc phải luồn cúi trong cái cơ chếxin-cho cứng nhắc. Nhạc của Phạm Duy đa phần đều nên được và cầnđược phổ biến và tôn vinh, nhất là trong bối cảnh nền âm nhạc Việt Namđang lao đao vì thiếu đi những tài năng thực sự, và một thời tao loạn củaâm nhạc đang diễn ra với đủ thứ bát nháo mang danh nghệ thuật lên ngôi.
Về phía Tố Hữu, ở nơi chín suối, hẳn Tố Hữu cũng thiết tha mong chúng ta nhìn nhận lại cho đúng gia tài thơ đồ sộ mà ông để lại. Vẫn biết thơ TốHữu gắn liền với cuộc đời cách mạng của ông nhưng trong thơ Tố Hữuđâu chỉ có những lời giáo huấn, đâu chỉ có súng gươm, đâu chỉ có căm thù, đâu chỉ có đấu tranh. Trong thơ Tố Hữu có cả một trời quê hương,đất nước thân thương; có cả những mối tình thủy chung son sắt; có cảnhững người mẹ dịu hiền chịu thương chịu khó. Những tình cảm chân thật, giản dị mà cao cả ấy đã được Tố Hữu đưa vào thơ ông bằng những câu thơ tài hoa tuyệt diệu mà nếu kể ra ở đây e không cùng, khôn xiết.
Thơ ông còn nhiều góc cạnh đẹp lung linh mà vì cái mặc cảm chính trịngười ta đã vội quên đi. Chẳng cần nói những điều cao xa, hôm nay mỗi lần bước trên đường phố Châu Âu tuyết phủ, tôi vẫn thầm nhớ tới câu thơrất đẹp của Tố Hữu:
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn

Hay khi bước đi bên dòng sông Hương của xứ Huế, có khi nào ta không ngẩn ngơ nhớ tới câu thơ:
Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên giòng Hương Giang
Cho nên chỉ cần chúng ta khơi gạn trong hàng trăm bài thơ dài ngắn củaông, sẽ thấy được cả một hồn thơ phong phú, sôi nổi mà bội phần lãng mạn, luôn mới mẻ và nồng nàn mãnh liệt. Đó là một kho báu của thi ca mà nếu không khéo chúng ta sẽ để thời gian phủ bụi lên.
****
Xin kết lại bài viết này bằng câu chuyện sau đây, câu chuyện do chính Phạm Duy kể lại về cuộc hạnh ngộ của ông với nhà thơ Tố Hữu:
Tôi quen anh Tố Hữu từ ngày Cách Mạng thành công và có nhiều dịp công tác với anh tại Huế và tại Việt Bắc trong ngày Đại Hội Văn Hóa.

Trở về quê hương năm 2001, tôi đã tới thăm một “đồng chí” xưa. Hai người đều vui vì có được môt hội ngộ không ngờ…

Chúng tôi không đả động gì tới chuyện “chính chị, chính em”, tới chuyện “đấu tranh, đánh trâu” chỉ nói chuyện “trời mưa, trời nắng, con cắng đánh nhau, bồ câu đi chữa, chốc nữa lại tạnh”.

Rồi anh Tố Hữu tự tay mở gói bánh đậu xanh Hải Dương ra mời tôi ăn…

Chia tay ra về, tôi không ngờ chỉ một năm sau, anh Tố Hữu qua đời.

Trong buổi gặp gỡ này, có mặt Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông Tin Trần Hoàn.

Anh Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc.

Phối hợp tài tình ca dao, các thể thơ dân tộc và thơ mới.

Vận dụng biến hoá cách nói, cách cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn người. Phong phú vần điệu, câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm.

Những bài “Việt Bắc”, “Nước non ngàn dặm”, “Theo chân Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố Hữu.
 ***
Tôi tin rằng giờ ở nơi nào đó, Phạm Duy và Tố Hữu đã gặp lại nhau như những người bạn nghệ sĩ, cùng nhau nhấp chén rượu xuân và quên đi mọi chuyện đắng cay của kiếp trước. Chỉ có chúng ta vẫn loay hoay trong vòng kim cô của lập trường, quan điểm để rồi đánh mất đi những giọt vàng của hai bậc tài hoa còn lưu lại trên cõi nhân gian.

                                                           Nguồn: Blog"Quê Choa"

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012


                                       MA THAI


                                             1

Trận chiến trên cao điểm năm mười sáu (516) đã im tiếng súng từ lâu. Bây giờ nơi đây đang chìm vào sự tĩnh lặng, một sự tĩnh lặng đến rợn người. Ánh trăng khuya từ trên cao chiếu xuống, soi rõ những tử thi của cà hai phía đang nằm lăn lóc ngổn ngang trên mặt đất chưa được dọn đi, khiến cho khung cảnh càng thêm vẻ thê lương. Trên mảnh đất tưởng như chỉ còn lại toàn là sự chết chóc, thực ra vẫn còn có người đang sống. Đúng ra chỉ còn lại một người lính đang hấp hối. Mãi anh vẫn không sao thoát đi được, giữa sự đau đớn tột cùng về thể xác, trong sự mê ảo của cơn hấp hối, những ý nghĩ của anh vẫn bay về làng quê. Nơi ấy có mẹ anh, vợ anh, hai người thân yêu nhất của anh đang ngóng chờ tin tức của anh, vẫn đang mong mỏi anh về… Ngày đi anh hứa với họ nhất định sẽ trở về, đã gần bốn năm rồi còn gì… anh bỗng thấy mình trôi dạt về phía… tít mù tắp…

…Anh chạy… anh chạy không ngừng nghỉ… qua không biết bao nhiêu đường đất mới về đến quê nhà. Gần đến đầu làng anh mới chậm bước lại, cổng làng anh kia rồi. Đây là cây đa đầu làng, nơi những ngày bé thơ anh vẫn thường ra ngóng mẹ mỗi lần bà đi chợ huyện về. Ánh trăng trên cao soi rõ con đường làng vẫn khấp khểnh ổ gà, ổ trâu như ngày anh ra đi. Kia là cánh đồng Lân mà những ngày còn nhỏ anh đã cùng bạn bè cùng lứa chăn trâu cắt cỏ và bày đủ trò phá phách. Đây là ngôi đền lớn của làng, thờ vị thần nào anh cũng không nhớ rõ nữa. Bên mé trái này gần như đối diện với ngôi đền là Văn chỉ, niềm tự hào của dân làng, đây cũng chính là nơi anh và “cô ấy” lần đầu tiên hò hẹn… Đã gần đến nghà anh, không biết cô ấy còn thức hay ngủ… Ngõ nhà anh kia rồi…

                                            2

Nước mắt chảy tràn xuống gối, Hiên đưa tay xoa nhẹ bụng. Cái bụng mang thai hơn tám tháng đã trở nên kềnh càng. Dòng nước mắt lặng lẽ trở thành tiếng nức nở.
- Con ơi, ngày mai người ta sẽ đến báo tử và làm lễ truy điệu cho cha con. Tội nghiệp con tôi, chưa ra đời mà đã chịu cảnh mồ côi…

                                     * * *

Đang chập chòn, Hiên bỗng mở bừng mắt, cô vừa mơ thấy Dũng, thấy anh đang chạỵ về phía cô… Sống lưng Hiên bỗng lạnh buốt nhưng đầu lại lóe sáng… Cô linh cảm đêm nay Dũng sẽ về…
...Trằn trọc, vật vã, dỗ dành lại giấc ngủ mãi mà không được, Hiên trở dậy, với lấy chiếc áo bông, khoác vào mình rồi mở cửa bước ra ngoài….
Đêm khuya. Trời rét. Sáng trăng suông. Hiên khép chặt tà áo bông, lặng lẽ và chầm chậm bước trong vườn. Nhũng tưởng ra ngoài cho vơi bớt nỗi nhớ, không ngờ nó lại lám cho cô thêm gia diết nhớ chồng. Trên mỗi tấc đất, trong mỗi cái cây của mảnh vườn vừa là đất ở vừa là đất năm phần trăm (5%) dưới chân cô đang bước có chỗ náo mà không có những dấu vết, những kỷ niệm về Dũng: đây là hai gốc cam anh đã lên tận bố hạ mang về, đây là hai gốc nhãn mà một người bạn thân của anh đã lặn lội mang từ Hưng Yên vào ngày anh sắp đi bộ đội. Cam thì đã có trái từ năm trước, nhãn thì năm nay mới có những quả bói đầu tiên… Hiên dừng lại bên bờ cái giếng nước mà cách ngày lên đường chỉ nửa tháng Dũng và hai người bạn đã hì hục vùa đào vừa xây suốt mấy ngaỳ mới xong
- Để em và mẹ khỏi đi gánh nước xa!- Anh nói thế.
“Cái anh chàng Bí thư đoàn xã này không chỉ thương vợ, thương mẹ mà còn khỏe ra phết…”. Nghĩ đến chữ “khỏe” hai má Hiên bỗng nóng rực lên trong đêm đõng lạnh giá “nhất là trong chuyện ấy...”, mắt cô như mờ đi trở nên mơ màng khao khát. Cô có cảm giác như đang ở trong vòng tay ôm xiết của Dũng trong những lần hoan lạc cùng chồng. Lấy nhau mới đươc gần bốn tháng, vừa mới kịp bén hơi chồng thì Dũng phải ra đi, từ bấy đến nay đã gần bốn năm rồi còn gì. Hơn một ngàn ngày cũng là hơn một ngàn đêm trôi qua, không đêm nào cô không khóc. Cô nhớ thương khao khát, khao khát hơi chồng, khao khát được vuốt ve âu yếm, khao khát ái ân… Có ai hiểu cho nỗi khổ của người đàn bà đang tuổi thanh xuân hừng hực yêu đương, có chồng mà phải xa chồng trong những đêm đông lãnh lẽo? Không chỉ một lần cô phải cắn chặt răng vào thành giường để đè nén nỗi ham muốn hừng hực bốc lên trong người… Hiên đưa mắt ngó mông ra đường như đang chờ đợi điều gì…Bỗng cô như bị điện giật, một bóng hình quen thuộc đang từ phía đường cái bước về phía ngõ nhà. “Dũng! Không lẽ linh nghiệm đến vậy sao?...” Hiên kêu lên trong đầu rồi cuống quýt chạy ra ngõ. Dũng thật, cô mở cửa và lao vào lòng chông, nước mắt như mưa mà không nói được một lời nào. Dũng cũng ôm chặt vợ lặng im. Thật lau, Dũng đưa tay vuốt lại mái Hiên và nhẹ nhàng bảo:
- Nín đi em, anh cũng nhớ em lắm. thôi, mình vào nhà đi em.
Hiên giật mình, chợt nhớ ra từ nãy tới giờ cả hai vợ chồng còn đang đứng ngoài ngõ. Cô bẽn lẽn:
- Mừng quá, em quên mất! - Cô líu ríu đưa chồng vào nhà…
Hiên nói:
- Anh nằm giường nghỉ một lát đi, để em nấu chút gì cho anh ăn.
- Thôi đi em, mình không có nhiều thời gian đâu. Để anh lên nhà chào mẹ đã…
- Mẹ sang gì Tiền từ chiều, sáng mai mới nề, bên đó hôm nay có đám giỗ…-
Chợt như nhớ ra, Hiên thất sắc - Mà anh nói mình không có nhiều thời gian là sao, bao giờ anh phải đi?
- Trong đêm nay anh đã phãi ra đi rôi.
Hiên vụt ôm chặt lấy chông, cô kêu lên:
- Không…không…Em không cho anh đi đâu.
Dũng cười buồn:
- Chuyện quân sự mà em, đâu phài mình muốn là được.
Trầm ngâm một chút, anh nói tiêp:
-Lần này được theo các anh ra Bắc công tác, rồi phải trở vào ngay. Nhưng anh nhớ em quá, trốn về chốc lát, phải quay trở lại ngay cho kịp giờ xuất phát của anh em…

… Họ lao vào nhau, háo hức cuông nhiệt, đam mê như những ngày đầu về với nhau. “Mình thật xấu xa…” , Hiên thoáng nghĩ thế khi lần đầu tiên cảm thấy hài lòng vì sự vắng mặt của mẹ chồng, nhưng chỉ thoáng rôi rồi cô lại quay trở lại ngay với nỗi háo hức đam mê chỉ có một lần của mình… Hiên ôm xiết lưng chồng, cô nói giong run rẩy trong hơi thở dồn dập, hổn hển:
- Anh ơi!... Em muốn có một đứa con…
Không hiểu sao, lúc ấy Hiên như thoáng thấy một màu đen lướt qua trên mặt Dũng. Nhưng chỉ thoáng chớp mắt thôi, Dũng nói:
- Được em ạ! Anh sẽ cho em… Nhất định em sẽ có một đứa con…

Hiên càng ôm xiết Dũng trong vòng tay…

Sự đam mê nào rồi cũng có hồi kết thúc. Tan cuộc mây mưa, Hiên lập tức rơi vào giấc ngủ mê mệt, trên gương mặt vẫn đọng lại nét rạng rỡ của sự thỏa mãn…
- Hiên ơi, vẫn còn ngủ, chưa dậy à, con?
Nghe tiếng mẹ chồng âu yếm gọi ngoài ngõ, Hioen6 mới giật mình tỉnh giấc. Dũng đã đi từ bao giờ, chăn màn vẫn bừa bộn trên giương. Nhìn lại cơ thể trần truồng không một mảnh vải của mình, Hiên chợt đỏ mặt, khi nhớ lại đêm qua. “Chắc anh ấy sợ mình khóc lóc ngăn cản khó từ biệt nên đã lén ra đi mà không thức mình dậy…”. cô vừa nghĩ bụng vừa lên tiếng nói với ra ngoài ngõ:
- Mẹ chờ con một chút.
Hiên mở ngõ, mẹ chồng cô vừa vào sân đã vừa nhìn nét đang rạng ngời của cô vừa hỏi, giọng cực kỳ âu yếm:
- Thằng Dũng về đêm qua, hai đứa con hạnh phúc chứ?
“  Thế mà bảo với mình là không còn thời gian, nhưng như thế mới đúng với tính cách của anh ấy…”, Hiên thoáng nghĩ. Mặt cô đỏ bừng, trong khi mắt thì tròn lên hỏi mẹ chồng:
- Thế anh ấy cũng sang bên gì Tiền chào mẹ à?
Bà Dũng kể:
- Lúc gần sáng mẹ mở cửa ra ngoài đi tiểu, khi trở vào gần đến giường, chợt tháy một cơn gió lạnh từ ngoài lùa tới, Nghĩ rằng mình quên chốt cửa, mẹ quay trở lại, quả nhiên cửa mở. Bất đồ mẹ thấy thằng Dũng từ ngoài bước vào, ba lô đeo trên lưng. Mừng quá mẹ chỉ còn biết ôm lấy nó mà khóc. Khi tỉnh trí lại mẹ định gọi nhà gì Tiền dậy thì nó không cho, nói:

- Con vừa về nhà, chỉ có Hiên ở nhà một mình. Nghe nói mẹ sang bên này, nên tuy thời gian gấp lắm, phải đi ngay con cũng cố sang chào mẹ. Vì lần này đi không biết bao giờ mới lại vê được… Nói xong nó ôm choàng lấy mẹ thật chặt rồi quay trở ra đi ngay, thật nhanh. Mẹ lập cập chạy đuổi theo mà không kịp. Từ lúc đó đến sáng mẹ chỉ nằm khóc một mình…
Giọng bà Dũng chợt trở nên băn khoăn, lo lắng:
Con có thấy vết thương trên cổ thằng Dũng không?
- Có mẹ ạ! vết thương còn mới lắm, thoạt nhìn tương như còn rớm máu. Con có hỏi thì anh ấy bảo bị thương trong trận vừa rồi ở trong ấy. Có thế thôi, anh ấy chẳng nói gì thêm mà con cũng chưa kịp hỏi kỹ...
= Lạy trời, lạy phật! cũng cón may.
Hiên lấy tờ lịch ngày hôm ấy, gấp lại và cất vào cuốn sổ công tác…
Gần một tháng sau, Hiên mừng rỡ thì thầm với mẹ chồng:
- Mẹ ạ! Con thấy tắt kinh đã gần nửa tháng nay rồi.
Bà Dũng mừng quýnh, rối rít:

- Thật à… Thật à… Có thật không con?
- Thật mẹ ạ! Kinh nguyệt của con đều lắm, tháng này đã qua kỳ kinh hơn mưới ngày rồi mà không thấy lại.
- Lạy trời lạy phật, thằng Dũng đã để lại một giọt máu cho mẹ con mình, trai gài gì cũng được. Cố mà giữ gìn nha con…
Những ngày sau đó niềm hạnh phúc và vui sướng cứ lồ lộ ra trên nét mặt Hiên, không giấu được, đến nỗi có lần mấy đứa con gái xúm vào trêu chị:
- Bà chị em dạo này trông hạnh phúc quá, mặt cứ tươi hơn hớn. Anh Dũng em về hay sao ấy?
Mắt Hiên sáng ngời lên, cô cười nửa đùa nửa thật:
- Ư! Dũng về đấy, có sao không?...
Mấy đứa con gái cười xòa, coi đó là một lời nói đùa, rồi thôi. Nhưng cũng có đứa tinh ý, chúng xì xào với nhau:
 Hình như chị Hiên có gì thật chúng mày ạ!
Người đầu tiên biết Hiên có thai là Hằng, bạn gái thân nhất của cô. Trong một lần ngồi chơi với Hằng, tự nhiên Hiên thấy chóng mặt buồn nôn, cô chạy vội ra ngoài. Hằng chạy theo:
- Mày sao thế, trúng gió á?
- Không, tao có thai.
Hà ngạc nhiên đến trợn tròn mắt:
- Có thai, mà với ai?
Hiên trừng mắt nhìn Hà, gắt:
- Cái con này, thì với Dũng chứ với ai.
- Với Dũng? Mà Dũng về bao giờ?

- Cách Đây hơn một tháng, Dũng về được vài tiếng đồng hồ rồi đi ngay trong đêm…
- Cái con này, giỏi dấu nhỉ, mà từ đó tới giờ sao tao cũng không nghe bác nói gì cà?
Hiên kể cho Hà nghe trường hợp Dũng về đêm ấy, rồi cô nói:
- Hai mẹ con tao định im lặn chờ xem có “kết quả” gì không rồi hẵng hay, nếu không có thì im luôn kẻo mọi người hỏi tới hỏi lui thêm xấu hổ và khó xử. Nhưng đến bây giờ thì tao lại không biết nói thế nào cho mọi người hiểu.
- Thì mày cứ nói như đã kể như đã kể cho tao nhe là được.
- Chẳng lẽ gặp ai cũng toang toác cái mồm ra kể à?...

Không ngờ chính sự ngần ngại, không dám nói ra của Hiên đã làm khổ chính cô không biết bao nhiêu mà kể. Chỉ ít lâu sau, khi mà động mạch cổ của Hiên nổi rõ và giật giật tháy rõ, hai hàng lông mày của cô xoăn tít và nhất là khi mà cái bụng của
cô trở nên lùm lùm dưới tà áo cánh thì mọi lời đồn đoán dè bỉu mới bắt đầu rộ lên:
- Cái Hiên có thai, mày biết không?
- Thật á, mà với ai?
- Lại còn không thật, cái bụng bắt đầu thè lè ra rồi. có mày đui mới không nhín thấy. Còn với ai thì mày đi mà hỏi nó ấy.
- Vậy mà lâu nay nó cứ lên mặt giảng đạo đức với anh em, nào là “Chúng ta phải cố gắng sống sao cho xứng đáng với người ngoài mặt trận…”: nào là “Chiến tranh càng ác liệt, khó khăn càng nhiếu chúng ta càng cần phải cố gắng…”. Rõ xấu mặt…

- Cái Hiên nhà bà Dũng có mang, bà biết không?
- Bà Dũng nói con Hiên có mang với thằng Dũng, một đêm nọ thằng Dũng về được vài tiếng rồi đi ngay.
- Ôi dào! Bà ấy mót cháu quá nên che chở cho con dâu đó mà.
- Bà nói cũng phải, chứ nếu nó về thật phải ra đi vội vàng thì hôm sau bà ấy cũng đã khoe ầm lên cho cả làng biết rồi. Tội nghiệp , rồi lại phải nuôi đứa cháu tu hú thôi.
Nhiều, nhiều lắm… những chuyện như thế cả Hiên và bà Dũng đều biết. Thực tình những ngày đầu, với những lời đồn thổi, cô không mấy quan tâm, đúng ra là cô vẫn tỉnh táo. Cô tin rồi mọi người sẽ hiểu cô, tin cô. Hằng đêm cô vẫn tâm sự với đứa con trong bụng: “Rồi mọi người sẽ hiểu mẹ và sẽ tin con là con của bố Dũng chứ không phải của ai khác, phải không con?...”.

Nhưng mọi chuyện không còn chỉ là lời đồn thổi nữa và trở nên không chịu nổi khi Hiên bị đưa ra kiểm thảo trước chi bộ trước Đảng ủy ( cô là đảng ủy viên phụ trách bí thư đoàn xã từ ngày Dũng đi bộ đội). Cô đã trình bày một cách chân thật mọi chuyện trước đảng, nhưng không ai tin cô. Người ta cố bắt cô khai ra ai là cha đứa bé trong bụng. Người ta đã dùng những lời lẽ đao to búa lớn để chỉ trích cô. Hiên vừa đau khổ vừa căm giận và khinh bỉ. Đau khỏ vì bị hàm oan, căm giận và khinh bỉ vì trong những cuộc kiểm điểm ấy, những người đưa ra những câu hỏi hóc hiểm có tính dồn ép thậm chí nhục mạ cô lại là những kẻ mà trong thời gian Dũng vắng nhà đã không ít lần tim cách dụ dỗ ve vãn Hiên hòng “chấm mút một chút của chùa vắng chủ”. Những hành động đó đa phần là lén lút nhưng cũng có khi công khai dưới dạng những lời đùa cợt. Thậm chí có kẻ đã trắng trợn (dĩ nhiên cũng dưới hình thức đùa cợt, chớt nhả) :… “Gạo lưng chum dễ bớt, ai biết đó là đâu…em ơi!...”, hay “…hưởng thụ một chút cũng vẫn còn nguyên xi mà,,,”. Tất cả những kẻ đó đều là “đồng chí” của cô. Lúc ấy cô giữ chặt lòng mình nhưng cũng rất nhẹ nhàng uyển chuyển trong ứng xử từng trường hợp. cô nghĩ: “Chiến tranh kéo dài và khốc liệt khiến cho con người ta có những suy nghĩ những ham muốn tầm thường cũng là lẽ tự nhiên thôi. Rồi tất cả sẽ qua đi…”. Vậy mà bây giờ những kẻ đó lại có thể chà đạp dày xéo cô thật tàn nhẫn với sự hả hê khoái trá trong lòng, được ngụy trang bằng vẻ nghiêm trang , trịch thương trên mặt và sự đạo đức cao cả trong lời nói. “Đảng rất khoan dung độ lượng nhưng cũng rất nghiêm khắc với nhũng kẻ bôi xấu thanh danh của đảng…”; “ …trong lúc các chiến sĩ đang hy sinh đổ máu ngoài chiến trường thì ở hậu phương có những kẻ có những hành động làm ô danh người chiến sĩ…”; “…phải làm trong sạch hậu phương để làm yên tâm chjiam6 chiến sĩ ở ngoài mặt trận…”… Họ không tin cả những lời nói có tính chất làm chứng của mẹ chống cô
- Cô nói đêm hôm đó đồng chí Dũng về có ai làm chứng?
- Có mẹ tôi!
- Nhưng đêm ấy bà Dũng đang ở nhà bà Tiền thì làm sao biết đồng chí Dũng về.
- Anh ấy có sang nhà gì Tiền để gặp mẹ.
- Bà Tiền khai rằng đêm ấy không có ai vào nhà bà cả.

Đến đây thì Hiên im lặng, không ai điếc bằng kẻ không muốn nghe. Khi mà mẹ chồng cô không chỉ một lần lên Ủy ban, Dảng ủy hay đến tận nhà bí thư, chủ tịch khóc và thuật lại mọi chuyên hòng thanh minh cho cô. Nhưng người ta chỉ cười khẩy, họ cho rằng đó là sự cấu kết giữa mẹ chồng và nàng dâu hòng bao che cho cô vì sợ nếu cô bỏ đi thì sẽ không có ai chăm sóc tuổi già của bà cả, thì cô còn biết nói gì hơn… Vả lại, Dũng về chỉ có cô và mẹ chồng cô biết mà thôi, còn cái thai trong bụng cô là thật dưới bao nhiêu cặp mắt của mọi người. Rồi cô bị đưa ra khỏi đảng ủy… rồi kỷ luật khai trừ lưu đảng…

Nhiều đêm, tỉnh giấc gữa khuya, nghỉ đến những tủi nhục không đáng có mà mọi người đã làm cho mình, Hiên đã thầm kêu lên với chồng:
- Dũng ơi! Em khổ quá anh biết không?...
Có những lúc sự đau khổ vật vã vì những áp lực bên ngoài nặng nề đến mức tưởng như vượt quá sức chịu dưng của một con người, Hiên úp mặt vào lòng mẹ chồng, nước mắt lọt qua kẽ tay rớt xuống thấm ướt cả lòng bà:
- Mẹ ơi! Mẹ có tin con không?
Bà Dũng nhẹ nhàng vuốt tóc con dâu. Nước mắt bà cũng lặng lẽ chảy dài trên hai gò má đã bắt đầu nhăn nheo của tuổi hơn sáu mươi:

- Tin, mẹ tin con à! Cho dù mẹ không biết gì về đêm ấy thì mẹ vẫn tin con. Hưống hồ chính mẹ đã gặp thằng Dũng…
    Giọng bà bỗng thành ngậm ngùi:
- Chiến tranh là mọi người đều khổ nhưng khổ nhất vẫn là những người đàn bà. Vì ngoài việc phải ngoài việc phải cực khổ gánh vác lấy những công việc của người đàn ông khi họ ở nhà, rồi việc nước, việc làng… người đàn bà còn phải chịu đựng những nỗi dằn vặt khát khao khác. Ai biết những nỗi khổ ấy cho họ.

Bà đưa tay vuốt xuông bờ hông đã mây mẩy của Hiên, giọng bỗng trở nên gia diết:
- Cái chuyện đàn ông đàn bà nó khổ lắm. Người ta cả đời không biết chuyện ấy thì cũng không sao, nhưng đã biết rồi thì… Đừng nghĩ mẹ không biết trong lòng con ra sao khi mà có những đêm con họp hành ngoài xã về đã chín mười giờ đêm vẫn còn đổ ra xay cả hai thúng thóc, để rồi sau đó ngủ lịm đi trong mệt nhọc. Nhũng chuyện đó mẹ đã trải qua cả. Ngày bố thằng Dũng lên Điện Biên rồi không về nữa, lúc đó thằng Dũng mới hơn một tuổi, mẹ mới hai mốt hai hai. Những ngày tháng sau đó trong việc nuôi thằng Dũng thì không có gì, nó là đứa trẻ hay ăn chóng lớn, ít bệnh tật lai ngoan. Mọi chuyện là ở con đàn bà trong mẹ. Ngày ấy, mọi chuyện còn khắt khe hơn bây giờ nữa con ạ! Nhưng thói đời càng cấm đoán thì càng muốn thoát ra. Chuyện gì cũng vậy, ai cũng vậy thôi. Mẹ cũng chẳng hơn gì người khác. Ban ngày tuy là ra đường ít khi dám nhìn thẳng vào mặt đàn ông, nhưng dẫu sao cũng còn đỡ, vì còn có việc làm để khuây khỏa, quên đi, Đêm về mới thật khổ. Hình như con đàn bà trong mẹ lúc này mới bộc lộ hết sự ham hố ra để vò xé con người mẹ…Con có biết không: mảnh vườn này là kết quả hàng ngàn gánh đất của mẹ trong những đêm khao khát, thiếu vắng chồng, thèm muốn một người đàn ông…

Bà Dũng ngừng lại một chút rồ mớii nói tiếp, gọng càng trở nên âu yếm:
- Trong hoàn cảnh này, nói thật, nếu con có lỡ làng ra mẹ cũng sẵn lòng tha thứ, huống chi…
Hiên vùng ôm chặt lấy mẹ chồng, cô nức nở khóc…
Mấy ngày gần đây trong làng đã lao xao có tin đồn rằng đợt này có đến mấy cái giấy báo tử trong đó có Dũng, khiến cô và mẹ chồng khóc hết nước mắt. Tuy vậy họ vẫn mong manh hy vọng tin đồn là không đúng. Cho đến chiều nay khi người cán bộ chính sách của xã chính thức đền báo tin và bảo gia đình chuẩn bị để ngày mai xã đến làm lễ truy điệu cho liệt sĩ…

                                     3

Khi người cán bộ chính sách đọc đến câu:
-… Hồ Trung Dũng sinh năm 1953, hy sinh ngay… tháng…. Năm… tại…
Thì bất ngờ có tiếng thét lên như xé lòng:
- Kh…ông...!
Không phải là một mà là hai tiếng thét hòa làm một, của bà mẹ và của Hiên. Hai người đàn bà đau khổ này đã cùng đổ ập xuống chân bàn thờ đang nghi ngút khói hương…mọi ngưới ùa cả lại. Nhưng rồi ngay trước mắt mọi ngươi, một sự lạ đã xảy ra: Cái bụng mang thai tám tháng của Hiên cứ từ từ nhỏ dần.. nhỏ dần … nhỏ dần… cho đến khi nó như chưa từng to ra bao giờ…

Ngày Dũng hy sinh cũng là ngày anh về gặp mẹ và Hiên.





Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

THÀNH PHỐ TUỔI THƠ TÔI


                                            Tặng Trần Ngọc Hồng và những người
                                            bạn cùng lứa tuổi tôi ở thành Vinh hồi ấy



                                  THAY LỜI TỰA

Đối với thành Vinh, tôi chỉ là dân tứ chiếng đến ngụ cư, thời gian cư ngụ lại không dài, chỉ trên dưới mười năm. Là dân ngụ cư thì cũng được đi, vì ngày ấy thành phố nào trên một đất nước vừa trải qua một cuộc chiến dài tới chín năm mà chẳng nhiều dân tứ chiếng, có khi dân tứ chiếng còn nhiều hơn dân bản địa nữa là khác. Nhưng nếu ở đó lâu dài thì cuộc sống cứ thấm dần thấm dần vào ta những điều đã xảy ra trên mảnh đất mà ta đã “xin nhận làm quê hương”. Để rồi khi xa nó, những điều đó sẽ trở thành ký ức, thành kỷ niệm không phai. Ừ, như thế thì đã đành. Đằng này tôi ở Vinh không nhiều, lại đúng vào thời kỳ mà như bà và mẹ tôi vẫn hay nói là “con nít, biết gì…”. Ấy vậy mà suốt trong những năm tháng lăn lóc với cuộc đời suốt từ Bắc chí Nam sau này, tôi không nguôi nỗi nhớ thành Vinh. Này là đường Phan Đình Phùng với hai hàng bàng tơ xanh mướt về mùa hè, gầy guộc khẳng khiu khi mùa đông tới và khi xuân sang cành đầy những búp non trông như những mũi giáo tua tủa chĩa thẳng lên trời. Này là khu nghĩa địa Tây vừa huyền bí lại vừa quyến rũ đối với lũ trẻ chúng tôi ngày ấy. Này là nhà thờ Cầu Rầm lung linh huyền ảo trong mùa Giáng sinh, là nơi hò hẹn của những đôi trai gái vừa chớm tuổi yêu đương. Cũng là nơi tụ họp của những đứa trẻ vừa nghịch ngợm vừa hiền lành chúng tôi, không kể giáo hay lương…

Và với nỗi nhớ ấy tôi viết tập bút ký này.

                                                                 I

                                                         VINH XƯA

Theo sử cũ thì Vinh được công nhận là thị xã từ thời thuộc Pháp (năm 1898) cùng với Hội An, Thanh Hóa và Huế theo một đạo dụ của vua Thành Thái. Trước kháng chiến chống Pháp, Vinh được coi là đô thị lớn của miền Trung với nhà máy hỏa xa Tràng Thi, nhà máy điện, nhà máy diêm… dân số lên tới mười tám vạn người. Nhưng khi tôi mới đến (giữa những năm năm mươi của thế kỷ trước) thì mảnh đất này còn là một thị xã nhỏ hẹp lắm. Nhìn đi nhìn lại Vinh lúc ấy chỉ có hai con đường chính, cắt nhau ở ngã tư trung tâm. Một con đường theo hướng đông – tây, bắt đầu từ nhà thờ Cầu Rầm và tận cùng là cảng Bến Thủy (mà khúc từ nhà thờ Cầu Rầm đến ngã sáu gọi là đường Phan Đình Phùng, còn khúc dưới là đường gì tôi không nhớ) và một con đường theo hướng bắc – nam, bắt đầu từ bến xe chạy thẳng đến chợ. Ngoài hai con đường ấy ra (nếu không kể những con đường ngang ngắn nhỏ nối các đường lớn với nhau) thì Vinh cũng có thêm mấy con đường chính nữa là đường Hồng Sơn chạy từ cuồi nhà thờ Cầu Rầm ngang qua cửa chợ đến đường Lê Mao, đường Ngư Hải chạy từ đường Hoàng Hoa Thám bây giờ ngang qua cổng cửa Tiền thành cổ xuống tận đường Lê Mao, đường Lê Mao bắt đầu từ cuối đường Hồng Sơn qua rạp chiếu bóng quốc doanh đến ngã năm bây giờ... Trừ hai con đường lớn được rải nhựa đàng hoàng còn các con đường khác (dù chính hay phụ) đều rải đá bốn sáu (4x6cm), lổm nhổm ổ gà, ổ trâu...

Nhưng dù là đường chính hay đường phụ, đường tráng nhựa hay đường đổ đá, thì vào mùa hè, một ngày hai lần vào khoảng 9- 10 giờ sáng và 1-2 giờ chiều đều có xe phun nước, phun nước để tránh cho thành phố sự “mờ mờ nhân ảnh” vì cát bụi. Vinh lúc đó thiếu thốn nhiều thứ nhưng có hai thứ là gió Lào và cát trắng thì rất thừa thãi. Mà không chỉ hồi ấy đâu, mãi sau này, vào giữa những năm bảy mươi của thế kỷ trước (khi tôi đã đi lính về và vào đại học), buổi trưa chúng tôi vẫn thường phải đem màn và chiếu nhúng ướt đi rồi trải chiếu mắc màn và chui vào ngủ trưa, làm như thế vừa mát lại vừa tránh được cát, khi thức dậy thì cả màn lẫn chiếu cũng khô cong.

Không biết một người xứ Nghệ nào đã nói về thời tiết cửa Vinh: “Nỏ nơi mô như ở Vinh, nắng chi mà nắng, mưa chi mà mưa!…”. Câu cảm thán này ngụ ý rằng ở Vinh mùa nắng thì nắng cháy đầu, mùa mưa thì mưa thối đất. Thật thế. Với địa hình bằng phẳng, hơi thấp, ba bề bốn bên là núi đã tạo nên cho Vinh một kiểu thời tiết khá đặc biệt. Tháng năm, tháng sáu, những đợt gió Lào nóng hầm hập thổi hun hút qua một hẻm giữa hai ngọn núi của dãy Chân Phúc ở Hưng Tây mà dân Vinh thường gọi là “eo gió”, đã biến Vinh thành một chảo lửa thực sự. Những buổi trưa hè cây cối và con người cả thành Vinh héo rũ đi dưới cái nắng gay gắt và những ngọn gió khô rang thổi ào ạt không ngừng không nghỉ, tất cả như lịm đi dưới cái nắng và gió ấy. Chỉ có bọn con nít là vô tư, chúng còn đang mê mải chạy chong chóng. Càng nắng càng gió chúng càng thích vì chong chóng sẽ xoay hơn, tít hơn. Phải nói hồi đó phong trào chơi chong chóng của trẻ con Thành Vinh thật là rầm rộ. Đủ loại chong chóng, loại hai cánh có, loại bốn cánh có, bằng giấy có, bằng lá dứa gai cũng có…

Tháng bảy, tháng tám, sau những trận mưa như trút, nước từ các nơi đổ về cùng nước các con sông dâng cao thường làm ngập một phần thành phố, thậm chí có năm hơn phân nửa thành phố bị nhấn chìm trong nước. Với người lớn, chuyện “chạy lụt” là một nỗi lo lắng ám ảnh vì nó ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống về cả tinh thần lẫn vật chất, nhưng với bọn con nít chúng tôi thì đó là những ngày hội. Những thân cây chuối đổ vì bão hay chết vì lụt được chặt ra, đóng lại thành bè và những trận thủy chiến trên đường phố diễn ra suốt ngày với với các đội “thuyền chiến” của Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo, Ô Mã Nhi… Người ướt như chuột lột, mặt mày lem luốc, sứt sẹo hay rớm máu vì trúng đòn của “kẻ địch”, những roi đòn của bố mẹ khi những buổi chiều về không hề làm cho chúng sợ. Hôm nay là vậy mà ngày mai chúng vẫn tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra…

Sau này, khi đã lớn tuổi ngồi ngẫm nghĩ lại tôi thấy, nếu không có gió Lào và nước lụt thì ngưới dân thành Vinh sẽ đỡ khổ đi nhiều, nhưng tuổi trẻ tụi tôi hồi đó cũng sẽ buồn đi không ít…

Có thể nói tuổi thơ của tôi và của cả bọn trẻ thành Vinh ngày ấy trôi theo những ngày nắng gió. Mà cũng lạ, hết chạy ngoài nắng, mồ hôi mồ kê đang đầm đìa lại nhảy ngay xuống sông dầm nước mà không đứa nào bị cảm bị ốm gì cả, Có lẽ bởi sự miễn dịch của chọn lọc tự nhiên hồi ấy quá mạnh, đứa nào yếu thì đã chết đi rồi, những đứa còn lại là những đứa khoẻ mạnh…

Như đã nói, Vinh hồi ấy chỉ có hai con đường đông - tây và nam - bắc là đúng nghĩa phố xá mà thôi. Nhưng hai con đường đó lại là toàn bộ bộ mặt kinh tế, văn hóa xã hội của thị xã.

Đây là nhà thờ Cầu Rầm mà từ lâu đã gần như thành biểu tượng của thị xã Vinh truớc chiến tranh (tôi nói gần như vì không có ai chính thức công nhận điều này cả, nó chỉ có trong lòng người, nhất là lòng những người đi xa). Khu vực chung của nhà thờ rộng và đẹp lắm, một bên là chủng viện chạy sát ra mé sông Cửa Tiền, một bên là nhà thờ với đỉnh nóc tháp cao vòi vọi (đối với lũ chúng tôi ngày đó)... Tôi còn nhớ như in không khí của những đêm Giáng sinh huyền ảo ở nhà thờ Cầu Rầm những năm ấy. Đèn nến lung linh, người đi lại nườm nượp. Người có đạo thì đi lễ, người không có đạo thì dạo chơi, tất cả làm nên không khí hội hè. Hòa vào sự vui tươi náo nhiệt đó là những đứa trẻ chúng tôi đến nhà thờ để chạy nhảy, đuổi bắt, phá phách. Chạy nhảy chán, chúng lại bày ra những trò nghịch ngọm đến mức quỷ quái: Nào là nhét thuốc lào vào mồm mấy con cóc rồi may bớt mồm lại, xong để xuống dưới những chiếc ghế đá, nào là lấy trái đùng đình xát ướt mặt ghế đá để rồi khi khuya đến có một đôi trai gái nào đó đang ngồi tình tự say đắm bỗng nhảy bật ngược vì những tiếng ho “khụ, khụ” bất ngờ từ dưới ghế đá vẳng ra, hay bỗng nhiên thấy ngứa ngáy dưới mông đến mức không chịu được phải rời nhau ra... hoặc có khi giật bắn mình vì một phát súng diêm nổ “đoàng” bên tai: một đứa nào đó đã nhân lúc họ đang say nhau, lén bò vào sát bên và nổ súng...

Rạp chiếu bóng Điện Biên ngày xưa vốn là của tư nhân, từ ngày hòa bình thì chuyển sang hình thức công tư hợp doanh. Bọn trẻ chúng tôi thường hay đến để tìm cách chui vào xem “cọp”, nhưng chui vào rạp khó lắm chứ không như những bãi chiếu ngoài trời (của các đội chiếu bóng lưu động). Thường thường là chúng tôi thất bại và bị kéo tai đẩy ra đường, nhưng hôm sau lại cứ đến, để rồi lại... bị kéo tai lôi ra ngoài. Họa hoằn lắm mới có đứa may mắn thoát được một lần thì được bạn bè nhìn với những cặp mắt ngưỡng mộ trong suốt một thời gian dài...

Ngã tư trung tâm là nơi giao cắt của hai con đường chính, một bên là cửa hàng bách hóa lớn nhất thành phồ, bên kia là vườn hoa trung tâm. Dịch vào phía sau vườn hoa một tý là thư viện tỉnh, nơi mà trong những năm tháng ở Vinh tôi thường đến để đọc sách và... ăn cắp sách. Trong con mắt của lũ trẻ chúng tôi ngày ấy, cửa hàng bách hóa sao mà đẹp và kỳ vĩ thế: Một tòa nhà cao to đồ sộ, sừng sững ngự ngay ngã tư, nơi đô hội nhất của thành phố. Bốn mặt đều là cửa kính, hàng hóa trưng bày hầu như không thiếu thứ gì (tuy rằng chúng tôi hầu như chẳng bao giờ mua được thứ gì cho ra hồn ở đây, tất cả đều phân phối theo chế độ). Đông ấm, hè mát, mùa hè thì có quạt trần mùa đông thì có cửa kính che chắn bớt những đợt gió mùa đông - bắc lùa hun hút, vì thế cửa hàng bách hóa được bọn trẻ coi là thiên đường của chúng trong những ngày hè nóng nực hay ngày mùa đông rét mướt, nhất là mùa đông khi mà không gian vui chơi của chúng bị thu hẹp đến mức tối thiểu vì thời tiết...

Về thực chất có thể coi ngã sáu với rạp chiếu bóng Quốc Doanh là điểm cuối về phía đông của thành phố lúc ấy. Vì từ đây trở xuống dân cư thưa thớt lắm, chỉ có nhà hát Nhân Dân và khu Bến Thủy là hai điểm nhấn của đoạn đường này. Nhà hát Nhân Dân là bãi chiếu của đội chiếu bóng lưu động mỗi tối thứ bảy và là nơi thỉnh thoảng các đoàn văn công (trong và ngoài tỉnh) biểu diễn phục vụ dân chúng. Gần như đối diện với nhà hát nhân dân là một vùng đất rộng mênh mông hoang vu với cỏ dại và cây bụi um tùm. Nơi đây nghe nói ngày xưa là khu trường thi của xứ Nghệ và các tỉnh lân cận như Thanh Hóa, Quảng Bình có từ thời nhà Trần. Thời nhà Nguyễn trường thi này đã lấy đỗ được những cử nhân xuất sắc như Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu là những danh nhân mà cả nước đều biết. Chế độ khoa cử kết thúc, người Pháp xây dựng trên mảnh đất này một nhà máy xe lửa lớn nhất nhì Đông Dương với hàng ngàn công nhân. Cùng với nó là nhà máy gỗ, nhà máy diêm…, tất cả đã tạo ra nền móng công nghiệp đầu tiên cho Vinh. Bây giờ nếu đi sâu vào trong người ta chỉ còn thấy đây đó những bánh xe lửa nặng nề, thậm chí cả một vài cái nồi hơi nước han rỉ nằm lăn lóc trong cỏ dại. Thật đúng là “dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo”…

Khu Bến Thủy là nơi tập trung khá nhiều cơ sở kinh tế của Vinh lúc ấy như nhà máy điện, xưởng cưa… nhưng tôi nhớ nhất là phà Bến Thủy với những người công nhân kéo phà mặt hằn lên những nếp nhăn khó nhọc, tay nổi bắp cuồn cuộn đang kéo những chuyến phà nối liền con đường giao thông huyết mạch Bắc – Nam, vì kia là Hà Tĩnh, đường A1 men theo dãy Hồng Lĩnh mà chạy thẳng vào Nam. Thực ra việc kéo phà bằng sức người này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, vào những năm cuối của thập kỉ năm mươi của thế kỷ trước. Về sau thì đã có ca - nô thay cho sức người nhưng ấn tượng về những chuyến phà ấy vẫn tồn tại trong tôi như một vết khắc sâu...

Có thể coi bến xe khách là điểm đầu con đường Bắc - Nam thành phố. Bến xe lúc ấy chỉ có những chiếc xe cổ lỗ tồi tàn nhưng vẫn phải khó nhọc bò trườn trên những con đường khấp khểnh để đưa khách. Hồi ấy còn có những chiếc xe chạy bằng than, trước khi chạy phải đốt cho than cháy, khói lên mù mịt một lúc thật lâu mới khởi động được. Và thật là tai họa cho những ai không may mua phải vé ngồi gần ống chứa than của ôtô (xe kiểu này có một ống chứa than hình dáng gần giống với bình ô xy bây giờ nhưng lớn hơn nhiều lần gắn ở phía sau)...

Phía trong bến xe độ năm bảy trăm mét là chùa Diệc, chùa lớn nhất trong ba ngôi chùa chính của Vinh thời trước là chùa Tập Phúc, chùa Diệc và chùa Sư Nữ (Chùa Tập Phúc khi tôi đến ở gần đó thì đã hoang phế hẳn, chẳng còn gì, chùa Sư Nữ thì tôi sẽ có dịp nói nhiều về nó sau). Chùa được dựng nên từ thời nhà Trần, theo truyền thuyết thì ngày xưa, khu đất thuộc chùa Diệc bây giờ là một vùng ao đầm. Một năm trời làm đại hạn, đất đai nứt nẻ, cây cối chết rũ cả. Một hôm người ta thấy từng đàn, từng đàn chim diệc bay về đỗ kín cả vùng đất ấy, tiếp đó là trời đổ mưa lớn giải hạn cho cả vùng. Sau trận mưa, người ta thấy cơ man nào là xác diệc chết, kín cả một vùng. Cho là trời sai chim diệc đến làm mưa, dân trong vùng gom xác diệc chết lại thành một cái gò nhỏ và thắp hương lễ tạ. Cũng từ đó đêm đêm nhiều người trong vùng nằm mơ thấy từng đàn chim diệc bay về trời. Tin vào sự linh thiêng, dân chung tay dựng nên chùa Diệc, ban đầu chỉ là nhà tranh vách lá, sau mới được tôn tạo dần.

Trong trí nhớ của tôi, chùa Diệc đẹp lắm, xung quanh chùa có lũy cây và vườn tược xum xuê bao bọc. Chùa có kiến trúc theo lối truyền thống của Phật giáo Việt Nam với bốn lớp: ngoài cùng là một hồ sen lớn, tiếp đó là cổng tam quan cao hai tầng (mà hồi nhỏ tụi tôi hay leo lên để chơi đùa, ngắm cảnh) và hai tấm bia đá lớn khắc sự tích và công lao những ngưới đóng góp xây dựng, sửa chữa chùa. Phía trong là hai lớp tiền điện và hậu điện có mười tám pho tượng Phật cổ rất đẹp. Có thể nói chùa Diệc là một trong những thắng cảnh của Vinh. Trước chiến tranh phá hoại của Mỹ, vào rằm, mồng một và các ngày lễ của Phật giáo, Phật tử đến lễ chùa rất đông. Không chỉ là thắng cảnh tôn giáo, chùa Diệc còn là một di tích lịch sử. Đây là nơi liên lạc bí mật của các chí sỹ Cần vương thuở trước và sau này là các đảng viên Việt Nam Quang phục hội của Phan Bội Châu. Nghe nói Đội Cung sau thất bại của khởi nghĩa Đô Lương đã về ẩn mình trong chùa Diệc ba ngày mới rút về Cổng Chốt rồi bị bắt và bị hành hình ở đó. Chùa Diệc cũng là nơi nhà nghiên cứu văn hóa Lê Thước, vị thủ khoa trong khoa thi cuối cùng của trường thi Nghệ An (1918) tìm thấy văn bản chép tay “Văn tế thập loại chúng sinh” (còn gọi là “văn chiêu hồn”) của đại thi hào Nguyễn Du…

Sau năm bảy lăm (1975) không hiểu vì sao một ngôi chùa đẹp như thế lại bị phá đi, chỉ còn lại cổng tam quan và hai tấm bia đá. Năm hai nghìn lẻ tám (2008), có dịp trở lại Vinh, tôi chỉ còn có thể ngậm ngùi trước cảnh hoang phế của ngôi chùa đã một thời nổi tiếng.

Qua chùa Diệc, vào sâu phía trong chút nữa là kho thuốc bắc với trận hỏa hoạn nổi tiếng năm sáu mốt (1961)(?), rồi đến ngã tư với cửa hàng bách hóa và vườn hoa và cuối cùng là chợ Vinh...

Vinh khi ấy đất rộng người thưa. Hòa bình mới lập lại, cơ sở cũ đã bị tàn phá, cơ sở mới chưa hình thành nên kinh tế của Vinh lúc đó hầu như chưa có gì. Về công nghiệp chỉ có một vài nhà máy nhỏ như nhà máy điện, nhà máy gỗ… đều tập trung ở Bến Thuỷ. Ở phía trên chỉ có xưởng đóng thuyền ở sông Xóm Củi (sau chợ Vinh), hợp tác xã sản xuất đồ gỗ xuất khẩu Hòa Bình nằm gần góc đường Lê Mao – Hồng Sơn…. Ngoài ra còn có nhà máy xi măng Cầu Đước chuyên sản xuất ra một loại xi măng có chất lượng chỉ đủ để xây chuồng lợn. Xa hơn tý nữa về mé trên là nhà máy gạch Cầu Miệu chuyên sản xuất gạch cung cấp cho các công trường xây dựng lúc bấy giờ. Thế thôi.

Dân cư thưa thớt, thực sự phố xá chỉ tập trung ở hai con đường chính là Phan Đình Phùng và Quang Trung. Ở những phố khác tuy cũng gọi là phố đấy nhưng dân ở rất thưa (nhà nào cũng có một mảnh vườn nhỏ thì một trăm, lớn thì vài ba trăm mét vuông), các điểm kinh doanh buôn bán ít lắm, vì nói chung người ta sợ “nền kinh tế tư bản” sẽ phát triển trong lòng một “thành phố xã hội chủ nghĩa”. Việc buôn bán trao đổi của người dân chủ yếu thông qua một cái chợ duy nhất của thành phố: chợ Vinh.

Vinh hồi đó rất thiếu thốn phim ảnh và văn nghệ. Ngoài mấy bãi chiếu bóng lưu động như Nhà hát nhân dân, đình Làng Vang… Vinh chỉ có hai rạp chiếu bóng là rạp Điện Biên gần nhà thờ Cầu Rầm và rạp quốc doanh ở Ngã sáu. Ngoài ra còn có rạp cải lương Hòa Bình trên đường Ngư Hải và thư viện thành phố nằm ở quãng giữa con đường này. Thế thôi.

Hồi đầu Vinh chỉ có hai trường cấp một là trường Vinh I và trường Vinh II. Trường Vinh I thì nằm ở mé dưới cửa Tiền thành cổ còn trường Vinh II tôi không nhớ rõ vị trí của nó. Cấp hai thì ngoài trường công lập là cấp II Vinh còn có trường cấp II tư thục Phạm Hồng Thái nằm gần bến xe khách. Còn trường cấp III Huỳnh Thúc Kháng thì không phải của riêng Vinh mà của cả tỉnh… Thế thôi.

Thế thôi. Cho nên có thể nói mà không sợ lầm rằng Vinh hồi ấy nghèo lắm, dân cư lầm lũi lắm. Nhưng lũ trẻ chúng tôi ngày ấy nào có chú ý gì, chỉ cần được ăn no (thậm chí nhiều khi không được ăn no ) và được chạy nhảy là vui rồi…

                                                                   II

                                            NGỌT NGÀO TUỔI THƠ

                                  NGÀY HÈ VÀ NHỮNG DÒNG SÔNG

Ai cũng biết mùa hè ở Vinh là mùa gió Lào cát trắng. Nóng hừng hực như thiêu suốt ngày, từ năm sáu giờ sáng đến tận đêm khuya còn chưa hết. Những ngày đó chỉ có tắm (đúng hơn là được ngâm mình vào trong nước) là nhất. Nhưng người lớn thì thì giờ đâu. Chỉ có bọn trẻ vô công rồi nghề chúng tôi (hồi đó học hành nhẹ nhàng lắm chứ không phải như bây giờ, cha mẹ thì bận công việc làm ăn không ai quản) là có đủ thời giờ thôi. Và chúng tôi đã tận dụng thời gian có được trong ngày để… tắm sông. Có thể nói về mùa hè trò chơi thú vị nhất của lũ trẻ là tắm sông.

Ngày ấy bọn trẻ ở Vinh có mấy “bãi tắm” lớn là hồ tắm (“hồ Tây”), sông cửa Tiền, sông Xóm Củi và sông Cầu Đen. Sông Cầu Đen thì hơi xa (trong con mắt tôi hồi ấy thì nó xa lắm nhưng bây giờ nghiệm lại thì cũng chỉ khoảng cây rưỡi, hai cây số đổ lại là cùng), thành ra chỉ khi nào hứng chí lắm chúng tôi mới rủ nhau ra sông Cầu Đen. Còn lại, bọn trẻ thường tập trung ở hồ tắm, sông cửa Tiền (ngay cầu cửa Tiền, sau lưng chợ cũ) và khúc sông xóm Củi. Hồ tắm vốn được dùng riêng cho người Pháp (nên còn được gọi là hồ “Tây”), nay “thuộc” về mấy đứa những xóm thuộc khu dưới của khu phố hai, như 7,8,9… (Ở hồ tắm này tôi cũng có một kỷ niệm. Năm học lớp 1, một buổi đi lao động về cả bọn rủ nhau ra tắm ở hồ tắm, tôi bị thằng Ngạch đen “dụ dỗ” ra ngoài xa nó sẽ tập bơi cho. Thằng này hơn tôi ba bốn tuổi, cao hơn tôi đến một cái đầu nhưng học cùng lớp với tôi nên tôi tin lời nó. Sau khi dìu tôi ra hơi xa xa nó buông tay, một mình bơi ngược trở vô, để mình tôi quẫy đạp, may mà cuối cùng cũng vào được, sau khi đã uống đầy một bụng nước hồ. Tôi chửi nó vô kể, còn nó thì cười hì hì: “Rứa mới mau biết bơi…”)... Sông cửa Tiền thì có bọn các xóm 4,5,6…, khúc sông chỗ này chảy mạnh lại sâu nên hầu như năm nào củng có đứa chết đuối (hồi ấy trẻ con thành phố đâu có điều kiện tập bơi như bây giờ). Vì thế chỉ những đứa bơi giỏi và thích cảm giác mạnh mới hay tắm ở đây. Sông Cửa tiền chảy qua chợ mới thì tách ra làm hai: nhánh chính chảy qua đồng Tháng năm rồi nhập với sông Cầu Đen để về gặp sông Lam ở sau rú Quyết, một nhánh thì hình thành một khúc sông cụt, tận cùng ở xóm 5 khu phố 3, chỗ xưởng gỗ Thống Nhất: sông Xóm Củi. Sông Xóm Củi là bến của các loại hàng nặng nề cồng kềnh như tre nứa, gỗ, mây song từ các huyện miền núi đem về chợ Vinh và cũng là nguồn cung cấp gỗ chính cho xưởng đóng thuyền và hợp tác xã Thống Nhất. Khúc sông này rộng chừng hơn hai mươi mét lại không sâu lắm, lúc nước lên mới lút đầu người lớn, lúc nước xuống có thể lội qua dễ dàng. Thật là một bãi tắm lý tưởng cho bọn trẻ, những đứa biết bơi có thể dùng các mảng bè làm cầu nhảy , những đứa bơi kém hoặc không biết bơi thì dùng làm phao… . Thằng Hồng bạn tôi hầu như trưa nào cũng ra ngâm mình ở sông Xóm Củi mãi đến khi trời ngả bóng mới về, và cũng không ít lần nó suýt chết đuối ở đây. Vậy mà nó vẫn sống nhăn, đang dạy ở trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. Những lúc vui chuyện nó hay nói với tôi: “… sống chết là có số mày ạ! Nếu không tao đã chết mấy đời ở sông Xóm Củi rồi…”.

Suốt ngày đầm mình trong nước chúng tôi bày những trò nghịch tinh: thi bơi, nhảy “bông dông” từ trên cầu xuống, đuổi bắt nhau… (nghĩa là tất cả những trò mà bất cứ những đứa trẻ tắm sông nào có thể nghĩ tới), ngâm cho đến khi bợt bạt cả người ra. Mệt quá thì trở lên bờ kiếm trò khác, ráo mình, mồ hôi bắt đầu rớm thì lại nhảy xuống sông. Lũ trẻ cứ thế mà “tiêu dao” hết mấy tháng hè nóng nực.

Ấy là nói chung cho bọn trẻ ở Vinh. Riêng bọn trẻ ở khu Cổng Chốt chúng tôi thì có hơi khác. Chỗ chúng tôi có thể coi là điểm kết thúc của nội ô thành phố, bắt đầu vào ngoại ô nông thôn nên đến những điểm tắm trung tâm như hồ tắm, sông Xóm Củi hơi xa vì thế chúng tôi cũng ít đến. Nhưng cái quan trọng nhất là chúng tôi đã có điểm tắm riêng của mình: sông Cầu Rầm.

Tôi không nhớ sông Cầu Rầm bắt đầu từ đâu, nhưng nhớ là nó chảy qua xóm Yên Nghị (là nơi chúng tôi hay tắm) rồi về gặp sông cửa Tiền ở phía sau nhà thờ Cầu Rầm (có lẽ tên sông Cầu Rầm bắt nguồn từ đó). Phía trên bờ sông có một ngôi đền cổ đã đổ nát từ lâu, chỉ còn lại một cổng tam quan, ngoài cổng tam quan, sát mé sông là một cây bàng thật lớn chĩa cành ra mặt sông. Dưới gốc bàng ấy là bãi tắm của chúng tôi. Khúc sông chỗ ấy rộng chỉ khoảng hơn hai mươi mét, không sâu lắm (chỗ sâu nhất chỉ vừa lút đầu người lớn), bãi tắm lại lài, nhiều cát nên những đứa không biết bơi cũng có thể tắm được, thật là một bãi tắm lý tưởng cho bọn trẻ. Tắm chán, mệt thì lên bờ rồi trèo cây bàng hái quả, quả chín thì ăn vỏ rồi đập hột lấy nhân, quả già thì chỉ đập lấy nhân thôi. Tôi còn nhớ cây bàng đó quả to mà ngon lắm, vỏ dày, khi chín thì ngọt lừ, nhân bùi bùi beo béo, không quên được (hay bởi hồi ấy nghèo đói quá nên quả gì ăn được cũng thấy ngon). Trò trèo bàng này thì nhất thằng Nghĩa: nó có thể trèo mút ra những cành bàng chỉ bằng ngón chân cái để tìm hái những quả bàng đực - những quả mọc riêng rẽ, cực ngon và thơm. Không phải mùa bàng thì cùng nằm lăn ra trước cổng tam quan hay chạy đuổi bắt nhau trong khu vực đền.

Nhân nói chuyện tắm sông tôi bỗng nhớ tới một việc chưa bao giờ được nói ra nhưng vẫn hằn sâu trong ký ức tôi.

Dạo ấy nhà tôi đã chuyển về dưới Hưng Dũng (ngoại ô thành phố) nên có thêm một chút đất có thể trồng rau màu. Vả lại tôi lúc này đã hơi lớn nên không được chạy nhảy chơi không như trước nữa, mà được giao làm một số việc như cuốc đất trồng rau hay gánh đất đắp vào gốc những cây đu đủ quanh nhà… Hôm đó tôi rủ hai thằng bạn thân là thằng Thắng (bây giờ dạy ở khoa ngữ văn trường đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Hà Nội), thằng Đường (thằng này thì từ ngày xa nhau năm sáu lăm (1965) là biệt vô âm tín) ra đồng Tháng Năm, chỗ có con sông Cầu Đen, cắt rạ. Thực ra, cắt rạ chỉ là cái cớ, cái chính là chúng tôi muốn được ra sông tắm để vùng vẫy cho thoả thích. (Ở Hưng Dũng không có sông chỉ có cái hồ Gon đầy một thứ rong để nuôi lợn, với chúng tôi chẳng được tích sự gì). Cắt rạ xong, tôi hét: “Xuống tắm bay ơi!...”. Thế là cả ba đứa nhào xuống sông. Tôi bơi giỏi nhất nên vượt lên trước, qua được nhịp cầu cuối cùng phía bên kia, bỗng nghe thằng Thắng gọi: “Kỳ ơi…, thằng Đường mô rồi nớ…”. Tôi nhìn lại, quả thật thấy mất tăm thằng Đường. Nhìn xuôi xuống một quãng tôi thấy cu cậu đang chới với giữa dòng (quê tôi gọi là “giã gạo”). Thì ra trời gió nam, sóng lớn tạt vào mặt, thằng Đường hoảng, buông tay, không bơi được nữa nên bị nước cuốn đi. Tôi vội lao xuống, gần đến nơi, thằng Đường thấy tôi, mừng quýnh, định níu lấy. Tôi hét lên: “Mi mà đeo tau, tau bơi vô liền, mặc kệ mi…”. Nói rồi tôi đạp cho nó một cái khiến nó duỗi người ra. Tôi liền nắm lấy tóc nó, vừa bơi vừa kéo nó vào bờ. Vào đến bờ, cả hai nằm thừ ra một lúc thật lâu mới tỉnh hồn trở lại. Chuyện này bọn tôi giấu nhà tới tận bây giờ.

Trở lại chuyện tắm sông Cầu Rầm. Sau cả buổi trời đằm mình dưới nước, đến nỗi các ngón tay cũng nhăn nheo cả lại, chúng tôi mới chịu lên bờ. Có hôm chợt nổi hứng, vừa lên bờ xong, một đứa nào đó (thường là thằng Nghĩa) kêu lên: “Vô chùa Sư Nữ chơi bay ơi!...”. Thế là cả bọn rùng rùng (khi ít thì bốn, năm đứa, khi nhiều thì cả chục, có đứa đang mặc quần đùi, cởi trần trùng trục cũng đi luôn) kéo nhau tắt ngang qua cánh đồng phía bên kia để tới chùa Sư Nữ. Chúng tôi lên chùa Sư Nữ vì chùa có sư Niệm.

Trong trí nhớ của tôi thì chùa Sư Nữ là một ngôi chùa nhỏ, cổ kính nằm phía trái đường lên Hưng Nguyên, Nam Đàn cách đình Làng Vang chừng vài trăm thước. Chùa chỉ có một vị sư duy nhất trụ trì: sư Niệm. Tôi không nhớ sư Niệm người ở đâu và vì sao lại đi tu. Chỉ biết là sư trẻ và đẹp lắm (sư đẹp đến nỗi nhiều năm sau khi sư vào chùa, các bà vãi vẫn phải cắt cử người ngủ chung với sư để đề phòng những thằng đàn ông bất lương). Chúng tôi lên chùa để được chạy nhảy, đuổi bắt trong bóng mát của những cây bồ đề, cây đại cổ thụ hay những cây phi lao to lớn tỏa bóng xuống sân chùa. Mà lạ gì lũ quỷ chúng tôi, đi đến đâu là phá phách đến đến đấy: leo cây, ném đá, nằm lăn ra cỏ, lắm khi còn làm bể cả bồn hoa, chậu cảnh, thậm chí có khi còn đái vào cả những nơi không được đái. Nhưng sư Niệm hiền lắm, Người không bao giờ la mắng (như nhiều người tu hành trong một số ngôi chùa bây giờ). Khi bắt gặp bọn trẻ (đang lúc hiền lành) vui chơi, Người mỉm cười vui vẻ. Gặp khi chúng nghịch ngợm, Người vẫn nhìn với vẻ bao dung. Chỉ khi mấy đứa nó phá phách quá sư mới cúi mặt buồn rầu và kêu lên nho nhỏ: “Các em đừng làm thế, tôi buồn lắm…”. Những ngày rằm, mồng một mà gặp lúc chúng tôi lên chùa sư thường vui vẻ đưa lộc Phật ra cho hưởng, khi thì nải chuối khi thì mấy phẩm oản. Dần dần sư đã cảm hoá được bọn trẻ, về sau bọn nó (và cả tôi nữa) đỡ phá phách hẳn ra…

Bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy tuy lúc ấy chỉ hơn chúng tôi chừng chục tuổi, hơn chục tuổi (chỉ đáng là bậc đàn chị chúng tôi thôi) nhưng sư Niệm đã có dáng dấp của một bậc cao tăng. Thực sự sư đã hiến trọn đời mình cho đạo, cho dức Phật, không để lại một điều tiếng xấu gì.

Năm 2008 trở lại Vinh, mang nặng những kỷ niệm ngày trước về chùa Sư Nữ, tôi ghé thăm chùa. Nhưng tôi thật sự thất vọng, thất vọng không phải vì không thấy lại người xưa (sư Niệm viên tịch đã khá lâu, điều này tôi biết), mà thất vọng vì chùa khác xưa nhiều quá. Phần mới xây dựng thêm rộng gấp hai, gấp ba chùa cũ, trang trí, bài trí càng đẹp hơn xưa (nhưng theo ý tôi thì phải gọi là loè loẹt hơn mới chính xác). Dù không phải là ngày lễ lạt nhưng tín đồ vẫn ra vào nườm nượp, đông gấp nhiều lần ngày xưa… Không còn đâu cái không khí u tịch thiêng liêng của một ngôi chùa nhỏ ngày trước…

                             BÀ HỎA VÀ NHỮNG TIỂU HỒNG VỆ BINH

Một trong những tai họa lớn nhất của Vinh lúc ấy là hỏa hoạn. Sau kháng chiến, thị xã mới xây dựng lại nên hầu hết là nhà tranh vách nứa, lại làm theo kiểu nhà phố san sát nhau. Không những thế, Vinh còn ở vào một vị trí hầu như là trung tâm của những đợt gió Lào hừng hực nên rất dễ bắt cháy, mà khi đã bắt cháy rồi thì rất khó dập tắt. Hàng năm xảy ra vài chục vụ cháy, mỗi vụ cướp đi từ vài đến vài chục nóc nhà là chuyện thường xảy ra. Nhưng ở Vinh có ba vụ cháy “lịch sử” (vào các năm 1957, 1960 và 1961) mà những người ở lứa tuổi tôi trở lên có lẽ không ai không nhớ. Mỗi vụ cháy lớn như vậy thiêu rụi hàng năm, bảy trăm đến cả nghìn nóc nhà, thật là kinh hoàng. Cháy dữ dội như vậy nên có thể nói mỗi khi nghe đến chữ “cháy” là mỗi người dân Vinh lại run lên vì khiếp sợ.

Cháy thì phải phòng cháy. Để phòng cháy, thành phố đã đề ra những nội quy thật chặt chẽ và cũng được thực hiện rất nghiêm: Năm giờ sáng mới được đỏ lửa, từ mười giờ (hay mười giờ ba mươi (?)) đến bốn giờ chiều là giờ cấm lửa, từ bốn giờ chiều trở đi mới được đỏ lửa trở lại cho đến tám giờ đêm. Tất cả đều được thực hiện bằng hiệu lệnh kẻng. Trước mỗi nhà ở Vinh hồi ấy đều có một thùng đựng nước, một bao cát, một câu liêm và một bùi nhùi, những thứ đó đều được dùng để chữa cháy. Quy định thì nghiêm như vậy nhưng cũng không tránh khỏi có những nhà vi phạm quy định (cũng như sự vi phạm của mọi thứ quy định trên đời này, vậy thôi): đến giờ cấm lửa còn đun nấu, bao rách cát chảy hết ra ngoài, thùng nước thì cạn trơ đáy (nếu không chú ý để thường xuyên đổ thêm nước thì chỉ vài ngày những ngọn gió Lào sẽ nhanh chóng hút cạn), câu liêm, bùi nhùi thì để vào những nơi rất khó lấy ra khi gặp hỏa hoạn. Thế là đội thiếu niên kiểm tra phòng hỏa ra đời.Tham gia vào công tác phòng chống hỏa hoạn lúc ấy có nhiều lực lượng (với những trận cháy có thể thiêu rụi cả thành phố ai dám lơ là): những đơn vị công an phòng cháy chữa cháy của thành phố, mỗi khu phố, mỗi xóm đều có đội phòng cháy chữa cháy của riêng mình... nhưng dân chúng vẫn ngại nhất là đội thiếu niên phòng hỏa của những “tiểu hồng vệ binh” chúng tôi.

Không phải ai trong Đội Thiếu niên tiền phong cũng được tham gia “đội thiếu niên phòng hỏa” đâu, phải là những đội viên tích cực, được tuyển chọn kỹ càng. Cũng nhân đây xin nói thêm một chuyện: hồi ấy, việc kết nạp một người vào Đội Thiếu niên tiền phong là vô cùng nghiêm túc và khó khăn, thậm chí có thể nói là nghiêm túc và khó khăn hơn việc vào nhiều hội đoàn lớn bây giờ. Người muốn vào Đội trước hết phải là đối tượng Đội, được đội cử người theo dõi, khi thấy đủ tiêu chuẩn mới được kết nạp. Ngày kết nạp, tại địa điểm kết nạp có treo Quốc kỳ và Đội kỳ hẳn hoi. Người được kết nạp đứng trước bàn thờ Tổ quốc, chào cờ và đưa tay lên rồi đọc lời thề: “Chúng tôi, đội viên đội thiếu niên tiền phong Việt Nam đứng trước Quốc kỳ và Đội kỳ xin thề…”. Sau đó, nếu là ở trường thì thầy giáo phụ trách đội của trường, nếu là ở xóm thì một cán bộ của xóm lên đeo khăn quàng đỏ cho đội viên mới. Từ giờ phút đó anh mới chính thức là đội viên. Việc kết nạp Đội hồi đó khó đến nỗi, tôi còn nhớ, bản thân tôi sắp đến ngày kết nạp, chỉ vì ngày mưa chơi nghịch giẫm chân ướt lên bàn và làm đổ mấy cái bàn trong một lớp vỡ lòng gần đó mà phải hoãn kết nạp mất ba tháng. Kể lại chuyện như vậy để thấy việc được vào đội thiếu niên phòng hỏa là một vinh dự lớn. Ở tuổi đó và vinh dự đó, chúng tôi rất hăng hái, hăng hái đến mức dân phố kêu trời. Chúng tôi thực sự trở thành những tên “tiểu hồng vệ binh” trong việc khám phòng hoả. Quy định của trên là vào khám nếu thấy còn lửa thì ghi phạt. Nhưng thế nào là còn lửa? Lửa ngọn và than hồng trong bếp thì đã đành, còn than đỏ dưới tro thì sao, thậm chí là những tàn than rất nhỏ dưới tro (cũng có thể trở thành nguyên nhân của các vụ cháy lớn) thì tính sao?. Thế là chúng tôi quy định với nhau: sục tay vào bếp nếu nóng quá phải rụt ra ngay là còn lửa, phạt. Nhưng da tay con nít cộng với sự hăng hái nhiệt tình quá mức và trí tưởng tượng phong phú, người bị chúng tôi ghi phạt nhiều lắm, hầu như không có mấy nhà là không bị ghi phạt. Dân phản ứng quá nên về sau phải quy định lại: Dúi một cái lông gà vào bếp, nếu lông gà quăn lại mới được ghi phạt. Với biện pháp này người bị phạt vẫn còn nhiều nhưng người ta không quy định lại vì họ (những người đặt ra quy định) cho rằng có lửa mới làm quăn lông gà, dù thực ra thì không phải thế. Tôi không nhớ hình thức phạt về vật chất là gì nhưng chắc chắn là bị kiểm điểm trước bà con trong những cuộc họp xóm. Hình thức khám lửa này lúc đầu cũng làm xôn xao trong dân một thời gian nhưng rồi cũng yên. Vì người dân quen dần, mà cái quan trọng là do sự khiếp sợ về cháy nên người ta cũng dễ dàng chấp nhận những biện pháp có tính cực đoan. Đội thiếu niên phòng hoả và hình thức khám lửa tồn tại mãi cho đến khi chiến tranh phá hoại của Mỹ nổ ra trên miền Bắc mới thôi…

                                            TÔI VÀ TỤI NÓ

Chúng tôi có ba nhà, là nhà tôi, nhà bác Khính và nhà bác Lương. Người lớn thân nhau, làm nhà ở cạnh nhau nên mấy đứa trẻ cùng lứa chúng tôi cũng thân nhau. Nhà bác Lương và nhà tôi là đồng hương Quỳnh Lưu (nhân đây cũng nói thêm một điều nho nhỏ tuy nó chẳng liên quan đến những gì tôi đang viết mà chỉ như một điều làm chứng: bác Lương là chị ruột của nhà văn Bùi Hiển, người đã viết tập truyện ngắn nổi tiếng “Nằm vạ”). Bác Khính người Hà Tĩnh, là bạn tù với cha tôi hồi cả hai người cùng bị đày đi Lao Bảo. Nghe cha tôi kể lại hồi ấy bác Khính đã giúp đỡ ông rất nhiều vì cha tôi bị tật ở chân nên đi lại rất khó khăn. Nhà tôi chỉ có tôi là lớn, nhà bác Khính có chị Cần, anh Kiệm tuy chưa lớn hẳn nhưng cũng đã khác lứa với chúng tôi và con Liêm cùng tuổi với tôi. Nhà bác Lương thì ba anh chị đầu đều đã đi làm, chỉ còn thằng Thanh hơn tôi một tuổi, thằng Việt kém tôi một tuổi và con Thúy kém tôi đến ba bốn tuổi. Vậy là chúng tôi thân nhau. Tôi và thằng Thanh, thằng Việt thì đã đành, vì chúng tôi cùng là con trai. Riêng con Liêm thì vì không có bạn gái cùng lứa nên cũng bám theo chúng tôi luôn. Mà kể cũng lạ, không hiểu sao ở xóm Mười hai của tôi hồi ấy, con trai cùng lứa đông thế mà không có con gái. May ra bạn được với nhau chỉ có con Liêm và con Thắng chị thằng Được con ông “Việt kẹo” (ông có nghề làm kẹo bao để bán nên có biệt danh như thế). Nhưng con Thắng đã nghỉ học ở nhà làm kẹo với cha nó nên không thể bay nhảy như chúng tôi.

Bọn chúng tôi có bốn đứa con trai là tôi, thằng Thanh, thằng Việt và thằng “Cường sẹo” (sẽ có dịp nói nhiều về nó sau) và nhiều khi có cả con Liêm nữa là năm. (con Liêm chỉ không theo chúng tôi trong những trò chơi như đá bóng, đánh khăng, đánh đáo… còn các trò khác như vào xóm Yên Nghị bắn chim, vào “rặc Tây” để hái hoa phượng, nhặt hạt cườm hay chạy chong chóng, bắt cào cào dứa… đều có mặt nó). Cả bốn đứa bọn tôi đều “mê” con Liêm vì trong con mắt chúng tôi ngày ấy con Liêm là một đứa con gái đẹp: trắng trẻo, mũm mĩm lại có cặp mắt rất to và sáng. Tính nó vui vẻ và hay chơi với bọn con trai hơn là con gái (hay bởi tại không có bạn gái nên nó mới chơi thân với chúng tôi như thế?). Con Liêm còn có biệt tài trong việc đọc bài đếm sao, ngô nghê mà rất xứ Nghệ của bọn tôi:

Một sao mô mồ

Tê tề

Đây nì

Đó ná

Hai sao mô mồ

Tê tề

Đây nì

Đó ná

...

Mỗi lần nó đọc chúng tôi đều ngạc nhiên không hiểu nó lấy hơi đâu ra mà mỗi lần có thể đọc một hơi tới mười lăm, mười bảy lần, trong khi chúng tôi chỉ đọc được tới mười một mười hai lần là cùng.

Cả bốn đứa đều mê con Liêm, nhưng con Liêm lại thích thằng Việt, đẹp trai cao ráo, trắng trẻo như thư sinh nhất. Vì ganh tỵ, cả ba đứa con trai còn lại thường hay giở trò “cặp đôi” hai đứa nó với nhau để cho “chúng xấu hổ chơi”, như thằng Thanh nói…

Tuy là có “mâu thuẫn” như vậy nhưng mấy đứa chúng tôi đi đâu cũng có nhau, chúng tôi thích nhất là những buổi đi bắn chim. Thằng Thanh và thằng Việt bắn “nộ” cao su “kền” lắm, (thằng Thanh đã có lần bắn trúng đầu một con cò đang lấp ló trong đám bèo tây giữa hồ thành). Tôi thì bắn kém đến nỗi về sau hai thằng đó không cho tôi bắn nữa, “mi bắn chỉ làm chim bay mất”, chúng nó nói thế. Từ đó tôi chỉ có “nhiệm vụ” đi lặt chim cùng với con Liêm. Mỗi lần đi bắn với tụi nó ít ra cũng được vài ba con chim xách về, có khi được cả chục con. Lúc đầu chúng tôi hay vào xóm Yên Nghị, xóm này nhiều chim lắm: chào mào, cà cưỡng, sáo, chìa vôi, sẻ (mà xứ Ngệ gọi là con “rặt rặt”)… Nhưng “dân” xóm Yên Nghị không thân thiện với chúng tôi lắm, không biết có phải vì dân xóm chúng tôi hay tổ chức đánh nhau với dân xóm chúng nó, hay vì chúng tôi hay vào bẻ trộm ngô, nhổ trộm lạc trên những mảnh ruộng của xóm chúng kề bên xóm tôi. Chim trúng đạn, rơi vào vườn thường bị chúng cướp mất, có khi còn trừng mắt với chúng tôi: “Chim vườn tau…răng bọn mi bắn…”. Vì thế về sau chúng tôi ít vào Yên Nghị mà thường lên “rặc Tây”, chỗ mộ đội Cung. Rặc Tây là một khu nghĩa địa của người Pháp trước đây và bị bỏ phế từ khi họ rút khỏi Nghệ An. Nó nằm cách cửa Hữu thành cổ khoảng vài trăm mét, phía trong mộ đội Cung.

Khu rặc Tây rất rộng, xung quanh có hàng rào bằng xi măng vây kín. Bên trong có trồng nhiều cây cổ thụ mà nhiều nhất có lẽ là phượng. Mùa hè hoa phượng rực đỏ, khu mộ Tây trông vừa huyền bí vừa quyến rũ vô cùng, nhất là với những đứa trẻ như chúng tôi. Cũng nói thêm là ngày xưa (và có lẽ cả bây giờ), Vinh ít hoa phượng lắm. (Theo trí nhớ của tôi thì ở khu hội quán Hoa kiều, chỗ đền nhà Ông, đền nhà Bà có mấy cây và khu mộ Tây mà thôi). Dưới những tàng cây cổ thụ là những lăng mộ được xây ngay hàng thẳng lối và rất đẹp. Khu mộ Tây cũng có nhiều chim lắm nhưng chúng tôi vào khu này không chỉ để bắn chim mà còn để bẻ hoa phượng và nhặt những hạt cườm bằng thủy tinh, mà có lẽ người ta đã rải ra trên phần đất còn lại sau khi xây lăng như một thứ trang trí. Trong khi chúng tôi trèo phượng và bắn chim thì con Liêm tha thẩn nhặt hạt cườm. Hạt cườm đem về xâu thành những sợi dây chuyền đeo chơi còn hoa phựơng thì đem ra ngoài mộ Đội Cung chơi chọi gà. Mộ Đội Cung lúc ấy xây tương đối đơn giản nhưng không gian thật thoáng đãng, u tĩnh với bốn cây xà cừ lớn hai người ôm ở bốn góc che rợp mát cả khu mộ. Trận bão năm sáu hai (1962) làm đổ mất một cây nhưng toàn bộ khu mộ vẫn giữ được vẻ đẹp tâm linh. Không như bây giờ khu mộ nằm trơ trẽn giữa sự vây chặt của phố xá.

Khi không vào mộ Tây bắn chim, lặt cườm, hái phượng thì chúng tôi “chạy” chong chóng. Nắng như đổ lửa, gió Lào thổi ào ào, nhưng từng đám trẻ con vẫn thi nhau chạy ngược gió để xem chong chóng của đứa nào xoay nhất.

Hết chạy chong chóng thì đến phong trào bắt và chơi cào cào dứa. Tôi nhớ có lần năm đứa (kể cả con Liêm) rủ nhau xuống tận khu đất hoang mà sau này là nơi xây trường cấp hai Vinh và khu Đinh Công Tráng (là khu “tái định cư” của những người dân bị cháy nhà sau trận cháy lịch sử năm sáu mốt (1961)) để bắt cào cào dứa. Khu đất hoang này nhiều cây dứa dại lắm và cũng vì thế cào cào dứa nhiều vô kể. Bắt được mấy con cào cào dứa thì đứa nào đứa ấy đều bị gai dứa cào nát cả mặt mày. Cào cào dứa bắt về khi thì chúng tôi buộc vào một sợi chỉ dài rồi thả cho chúng bay thi xem con của đứa nào bay cao nhất, khi thì buộc vào một bao diêm chứa đầy đất xem con nào kéo được bao diêm đi xa nhất…

Trong số những đứa bạn có thể gọi là thân ấy, ngoài thằng Cường ra, tôi hay nhớ tới con Liêm nhất. Không phải vì nó chơi thân hơn với tôi, nó thân với bọn thằng Thanh thằng Việt (nhất là thằng Việt) hơn, như đã nói. Nhưng giữa tôi, nó và thằng Cường có một kỷ niệm làm tôi nhớ. Đó là lần tôi và thằng Cường nhát ma nó ở đền nhà Ông khiến nó sợ chết khiếp.

Ở Vinh hồi ấy có hai ngôi đền được tiếng là thiêng, rằm, mồng một và các ngày lễ tết người đến lễ bái rất đông. Đền nhà Bà thì không có gì đáng nói, riêng đền nhà Ông đã xảy ra hai chuyện mà cùng với lời đồn thổi của cư dân thành Vinh đã trở thành ma quái. Nó tạo cho ngôi đền vốn đã có tiếng là linh thiêng càng trở nên linh thiêng hơn.

Chuyện thứ nhất là trước cổng đền có tấm bia đá cao to lắm, trên cùng của tấm bia có phù điêu hay tượng ông Phật (thật ra tôi cũng không nhớ lắm về nhân vật mà phù điêu muốn thể hiện). Một hôm có thằng bé nghịch ngợm leo lên bia ngồi quàng chân qua cổ “ông Phật”, vừa ăn xôi vừa nhún nhảy, lại còn đưa nắm xôi vào miệng Phật để “mời Phật ăn xôi”, trước sự hò reo cổ vũ của mấy đứa bạn bên dưới. Đột nhiên thình lình tấm bia ngã xuống, đè lên thằng bé làm nó chết ngay. Người ta nói rằng đứa bé bị thần vật vì tội báng bổ thần linh.

Chuyện thứ hai là phía sau đền có một cây đa to cao lắm, cành lá rậm rạp che hẳn cả một phần đất của đền (chẳng biết bây giờ cây đa đó có còn nữa không). Rễ và thân đa quấn lấy nhau chằng chịt tạo nên nhiều mấu, nhiều hốc rất tiện cho trẻ con bám vào để leo lên. Lần đó có thằng bé leo lên rồi tự nhiên không xuống được nữa, nó cứ ôm cứng lấy cành cây đang ngồi rồi khóc oà lên. Người ta làm cách nào cũng không đưa nó xuống được, thậm chí cho người bắc thang trèo lên gỡ tay nó để đưa xuống cũng không xong như thể có một bàn tay thần bí nào đó giữ chặt. Về sau bố mẹ đứa bé phải sửa lễ vào đền cúng vái mới đưa được nó xuống. Không biết thực hư ra sao nhưng chuyện thằng bé bị bia đè chết và thằng bé trèo lên cây đa rồi bị trói ở đấy không xuống được là có thật. Vì thế đã có một dạo khá lâu không một đứa trẻ nào dám bén mảng đến đền nhà Ông vì… sợ ma.

Hôm đó ba đứa chúng tôi rủ nhau đi lang thang. Sau khi vào thư viện đọc sách chán (thư viện hồi ấy có phòng đọc riêng cho thiếu niên, không cần phải có thẻ), chúng tôi sang cửa hàng bách hóa chơi một lúc, rồi sang hiệu sách Nhân dân góp tiền mua chung với nhau cuốn “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” . Độ ba giờ rưỡi, bốn giờ chiều, ở hiệu sách ra, thằng Cường rủ: “Hay ta sang đền nhà Ông chơi đi…”. Cả bọn đồng ý vì từ hiệu sách sang đền nhà Ông chỉ một quãng ngắn. Đền nhà Ông vào ngày thường rất vắng, không khí u tĩnh mát mẻ. Vì cửa điện thờ vẫn đóng nên chúng tôi thơ thẩn một lúc ở sân đền rồi lần ra phía sau đền. Gần đến gốc đa, nhân lúc con Liêm không để ý, tôi nói nhỏ vào tai thằng Cường: “Nhát… con Liêm…”, thằng Cường cười cười đồng ý. Phía sau đền càng vắng lặng hơn so với phía trước nên con Liêm có vẻ hơi sợ: “Ra thôi bay ạ... tau thấy sợ…”. Con Liêm vừa dứt lời, đột nhiên tôi hét lên: “Ma… treo…cổ…”, rồi hai đứa quay lại co cẳng chạy thật nhanh… Con Liêm sấp ngửa chạy theo chúng tôi, miệng kêu: “Chờ tau với…”. Ra đến đường cái trước cổng đền hai đứa chúng tôi đứng lại, nhăn răng cười. Con Liêm vừa tức tưởi khóc vừa nói: “Tau không chơi với bọn bay nữa mô… bọn bay ác lắm…”…

Sau kỷ niệm này ít lâu, gia đình con Liêm chuyển ra Hà Nội. Hơn mười lăm năm sau, tình cờ gặp nhau ở Hà Nội, ngồi kể lại với nhau những kỷ niệm thời thơ ấu dại khờ, có nhắc lại chuyện này, hai đứa cùng cười.

                                      THẰNG TRỜI ƠI

Mỗi khi nhớ tới mấy thằng bạn chơi với nhau hồi ở Vinh, không hiểu sao người đầu tiên tôi nhớ bao giờ cũng là thằng Nghĩa, mặc dù nó không phải là bạn thân, càng không phải là đứa bạn thân nhất của tôi. Nó hơn chúng tôi đến ba bốn tuổi, nghĩa là đã khác lứa rồi. Thằng Nghĩa là con bác Chánh, người Quảng Ngãi tập kết. Vợ chồng bác Chánh rất hiền lành, ăn ở với bà con lối phố đầy đủ lắm, còn thằng Nghĩa thì thôi, là thằng trời ơi đất hỡi. Nó theo cha ra Bắc thành ra học hành rất trễ. Lứa tuổi nó ở Vinh người ta đã học lớp sáu, lớp bảy còn nó chỉ học lớp bốn, nó hơn tôi ba tuổi nhưng chỉ học hơn tôi một lớp. Học trễ, cùng lứa không ai với nó nên nó đành chơi với chúng tôi. Cũng nói thêm là hồi ấy mới hoà bình nên chuyện đi học trễ như thằng Nghĩa là chuyên khá thường. Còn nhớ hồi lớp một, lớp tôi có o Dung, học xong lớp một o nghỉ ở nhà lấy chồng luôn. Tôi cũng đến chín tuổi mới vào lớp một.

Thằng này có một cái tật rất xấu là lớn người rồi nhưng hay ăn dỗ của trẻ con. Thấy đứa nào có miếng gì ngon thế nào nó cũng sà sà lại nịnh, dụ dỗ, hứa hẹn, dọa dẫm… kỳ sao cho ăn được của đứa bé một miếng mới thôi. Thậm chí có lần có đứa nhỏ đang bưng bát cơm có khúc cá ngon, thằng Nghĩa dỗ mãi mà không được liền bẻ nửa khúc bỏ vào mồm. Thằng bé khóc òa, nó liền nhả miếng cá trong mồm trả lại bát: “Thôi tau trả lại cho mi!”. Thằng nhỏ vẫn khóc: “Mi bỏ vô mồm rồi, không ăn nữa mô…”. Nó liền nhón lấy miếng cá, vừa bỏ trở vào miệng vừa nói: “ Mi không ăn thì để tau ăn cho…”. Nói xong nó liền bỏ đi.

Tuy nó có tật xấu như vậy nhưng bọn tôi cứ suốt ngày lẵng nhẵng bám theo nó vì nó là đứa giỏi bày ra những trò ngịch ngợm tinh ma. Có thể nói nó là thủ lĩnh của bọn con nít xóm tôi ngày ấy. Nhà ai có ổi chín, ổi chua có thể ăn được, nhà ai có bưởi non có thể dùng để làm bóng được nó đều biết hết và dù cho chủ nhà có giữ gìn đến mấy nó cũng tìm cách hái trộm được. Kể một chuyện để biết thằng này quỷ quái ranh ma đến chừng nào:

Nhà thằng Khôi ở gần nhà tôi có cây ổi to, trái ngon lắm mà bố mẹ nó thì rất khó, giữ cây ổi chằn chằn (cũng đúng thôi, ở thành phố mà có cây ổi như thế đâu phải dễ). Hôm ấy biết nhà thằng Khôi đi vắng cả chỉ có thằng Nguyên ở nhà, thằng Nghĩa kéo ba, bốn đứa chúng tôi tới. Thằng Nguyên đang tha thẩn chơi trước nhà (ngày ấy vì công việc làm ăn hay bận bịu gì đó mà người lớn chỉ để một đứa nhỏ ở nhà trông nhà là chuyện thường). Đầu tiên chúng tôi bày trò chơi bi và cho thằng Nguyên cùng chơi. Chơi được một lúc thằng Nghĩa bảo:

- Nguyên, anh cho em năm xu lên nhà ông Thu mua bánh khảo.

Thằng Nguyên ngần ngừ:

- Em còn phải coi nhà…

- Có bọn anh chơi ở trước nhà đây, mất chi mà sợ.

Thằng bé lon ton chạy đi, bọn tôi ở nhà tha hồ “tàn sát” cây ổi. Xong tụi tôi rút, chỉ mình thằng Nghĩa ở lại. Được một lát thằng Nguyên về nói với nó:

- Nhà ông Thu không có bánh khảo anh ạ!

Nó liền bảo:

- Thôi, đưa 5 xu đây, lần khác anh cho.

Nó lấy lại 5 xu từ tay thằng Nguyên và cũng đi nốt (ấy là về sau nó khoe với chúng tôi như vậy). Sau chuyện này mỗi đứa chúng tôi đều bị mấy roi vì bố mẹ thằng Khôi đến nhà phàn nàn…

Cạnh nhà tôi có một cái sân lớn, nó vốn là sân quần vợt của người Pháp để lại, nhưng lũ trẻ chúng tôi thì chỉ đơn giản gọi nó là “sân xi măng” vì bề mặt sân được tráng bằng xi măng. Quanh sân người ta làm nhà ở chật kín, trong đó có một ngôi nhà không ở mà chỉ được dùng vừa làm lớp học vỡ lòng vừa làm “hội quán” để bà con trong xóm hội họp khi cần và làm lễ chào cờ đầu năm.

Hội quán là nơi ban đêm lũ trẻ trong xóm chúng tôi tụ tập chơi bắn bàng (một trò đánh trận giả), đuổi bắt cứu, rồng rắn lên mây…còn sân xi măng là nơi chúng tôi đánh khăng, đánh đáo, đá bóng… cũng là nơi dân xóm Yên Nghị đưa lúa ra trục những ngày mùa. Những ngày dân Yên Nghị đưa lúa ra trục thì vui lắm, người lớn lo trục lúa còn chúng tôi thì chạy nhảy lăng xăng, giả vờ nằm lăn lộn trên sân lúa, nhưng lại dùng tay móc lấy những nắm hạt nằm dưới rơm bỏ vào túi, đầy túi chúng tôi chạy về nhà đổ ra rang lên và “cắn trắt” với nhau. Hôm nào thứ đem trục là lúa nếp thì càng vui nữa, lúa nếp đem về chúng tôi giao cho các bà chị tuổi mười lăm, mười sáu (cũng đang tuổi ham vui) rang lên rồi dùng lon sữa bò và cán dao giã cho tróc vỏ trấu đi để làm cốm rồi cùng ăn, vui vẻ, hỉ hả vô cùng…

Tuy vậy trò vui nhất của bọn trẻ chúng tôi ở sân xi măng là đá bóng. Những trận quần thảo trên sân hầu như không chiều nào không có (có lẽ chỉ trừ những ngày mưa sân trơn ướt). Có khi những “trận chiến” của chúng tôi kéo dài từ khoảng bốn giờ chiều, nghĩa là còn nắng lắm đến chập choạng tối vẫn còn tiếp diễn rồi phải nhờ đến một lý do gì đó mà các bên sinh ra cãi nhau mới kết thúc được. (Bây giờ tôi mới nghiệm ra rằng trẻ con chơi với nhau bất cứ trò gì cũng rất say mê, say mê đến nỗi chúng chỉ có thể giải tán khi cãi nhau mà thôi). Gọi là đá bóng nhưng hồi ấy làm gì có trái bóng đúng nghĩa mà đá như bây giờ. Khi thì một túm dẻ rách, khi thì một túm lá chuối nhồi lại thật chặt rồi quấn chằng chịt bên ngoài cũng bằng dây chuối, đem ra mà đá với nhau, sang lắm mới có được một trái bưởi non đem nướng cho mềm làm bóng. (Tôi còn nhớ có lần vì túng không có bóng, thằng Hòa “móm” con bà Hòa rượu nếp chạy về nhà lấy một cái áo đã sờn cũ nhưng chỉ mới vá một miếng đem ra cho chúng tôi làm bóng, về sau mẹ nó biết được, nó bị đánh một trận thật đau).

Nhà thằng Phùng con bà Tương ở cặp sát sân xi măng có một mảnh vườn nhỏ độ hơn trăm mét vuông, trong vườn có trồng một ít rau củ nhưng quan trọng nhất là có một cây bưởi khá lớn và rất sai trái. Cây bưởi này là nguồn cung cấp “bóng” cho chúng tôi mỗi mùa trái non. Thường thì thằng Phùng về lấy những trái rụng ra cho chúng tôi làm bóng. Nhưng những trái rụng thường rất nhỏ, phải quấn thêm vải vụn bên ngoài mới đá được, dẫu sao có còn hơn không. Khi trái rụng không còn nữa, chúng tôi xui nó về hái những trái cỡ bằng cái bát ăn cơm ra làm bóng. Thằng Phùng đã nhiều lần bị đòn về chuyện này nên về sau nó cũng không dám nữa. Thằng Phùng không dám lấy thì chúng tôi ăn cắp. Đã nhiều lần thằng Nghĩa bẻ hàng rào nhà bà Tương hái trộm bưởi non. Mỗi khi bà Tương biết (mà làm sao không biết được) liền lôi cả tam tứ đại “đứa nào hái trộm bưởi nhà bà” ra mà chửi. Chửi thì chửi, bà chửi thì bà nghe, ăn thua gì với chúng tôi…

Một lần không biết ai cho thằng Hùng “chột” con ông Tửu (thằng này không phải chột thật mà bị một cái “vảy cá” ở mắt phải nên chết danh) một trái bóng da thật sự, tuy đã cũ nhưng còn tốt. Khỏi nói cũng biết lũ trẻ xóm tôi sung sướng biết chừng nào. Những trận đá bóng diễn ra nhiều hơn, lâu hơn, ác liệt hơn… Nhưng trái bóng thật cũng có cái “dở” của nó là nó tâng quá, nảy quá. Tất nhiên với chúng tôi thì trái bóng càng tâng, càng nảy càng tốt nhưng có điều nó làm phiền những nhà ở quanh sân không ít. Những nhà trở mặt ra sân xi măng thì chỉ thỉnh thoảng bị giật mình thót tim vì đang làm việc trong nhà đột nhiên nghe “bình” một tiếng như “trời long đất lở” do trái bóng của chúng tôi đập vào bờ vách trước nhà. Riêng nhà bà Tương thì khác, vì vườn nhà bà nằm cặp theo sân nên thường xuyên bị những trái bóng do chúng tôi lỡ chân đá bay vào làm hỏng cả những luống rau trong vườn. “Của đau con xót”, mỗi lần như thế bà Tương tức lắm, bà chửi chúng tôi vô kể (bà vốn là người hơi dữ tợn, lắm điều). Cũng đã nhiều lần bà Tương tịch thu trái bóng đem vào nhà cất, mỗi lần như thế chúng tôi đều nói thằng Phùng rình lấy trộm ra trả lại. Lần ấy thật không may, trái bóng cứ hướng vườn nhà bà Tương mà bay vào đến ba bốn bận. Mấy lần đầu thì không sao, vì bà không có ở nhà, thằng Phùng chỉ việc chạy vào vườn ném quả bóng qua rào trở lại cho chúng tôi. Lần cuối cùng vừa đúng lúc bà về. Có lẽ quá đau lòng vì cảnh tan hoang của vườn rau, bà ôm trái bóng vào thẳng trong nhà, sau khi quay đầu lại nói vọng ra với chúng tôi (vốn đang tụ tập ngoài hàng rào): “Lần ni tau mà trả trái ban cho bọn mi, tau chết!”. Và lần này thì bà làm thật. Bà cất trái bóng kỹ đến nỗi mấy lần bị chúng tôi thúc ép, thằng Phùng về tìm, lục lạo khắp nhà vẫn không thấy.

Mất trái bóng, cả lũ chúng tôi như người mất hồn. Những trận đá bóng bằng bóng dẻ, bóng bưởi bây giờ mới trở nên nhạt nhẽo kém hấp dẫn làm sao. Chúng tôi khổ sở giống như cảm giác của một người đang giàu sang phú quý bỗng trở thành tay trắng, khố rách áo ôm. Mà lạ gì tâm lý con người, cuộc sống từ khổ sở lên sung sướng thì không sao, nhưng nếu theo chiều ngược lại, bất ngờ từ cảnh sung sướng tụt ngay xuống cảnh gian khổ thì khổ sở càng thêm khổ sở. Người lớn đã vậy huống hồ là tâm lý lũ trẻ chúng tôi vốn vô cùng nhạy cảm. Đáng lẽ phải nghĩ ngày xưa vốn đá bằng bóng dẻ, bóng bưởi, thậm chí bằng bóng lá chuối thì bây giờ trở lại bóng dẻ bóng bưởi cũng có sao đâu. Không, chúng tôi không nghĩ thế (mà nếu nghĩ được thế thì chúng tôi đã không còn là con nít nữa), chúng tôi chỉ chăm chăm làm sao để lấy lại quả bóng thật mới được. Bởi trái bóng dẻ, dù đá mạnh đến mấy cũng chỉ lăn lông lốc chừng hơn chục thước rồi nằm quay đơ ra đó, chưa kể mỗi trận ít ra cũng phải chằng níu lại ba bốn bận mới có thể đá tiếp). Ngược lại, trái bóng thật vừa nảy vừa tâng, chỉ một cú đá không cần mạnh lắm cũng có thể bay từ đầu này sân đến đầu kia sân bây giờ không còn được chơi thì buồn thật… Đã mấy lần, khi thì thằng Hùng (chủ trái bóng), khi thì cả bọn chúng tôi kéo nhau vào năn nỉ bà Tương, hứa hẹn đủ điều (tất nhiên là hứa để mà hứa), nhưng bà vẫn cương quyết không chịu trả trái bóng lại. Chúng tôi vừa thất vọng, khổ sở lại vừa tức. Một hôm cả bọn đang ỉu xìu ngồi nhìn thằng Việt chằng trái bóng dẻ bằng một nắm dây chuối, bỗng nhiên thằng Nghĩa nói: “Thôi hôm nay không đá ban nữa, ban dẻ đá chán chết, tau phải nghĩ cách lấy lại trái ban mới được…”. Cả bọn ngạc nhiên nhưng cũng làm theo lời nó, giải tán. Hôm sau, cả bọn tập trung lại ở góc sân cạnh nhà bà Tương, thằng Việt vừa lôi trái bóng dẻ được chằng níu hôm qua ra, đột ngột thằng Nghĩa hô: “Thằng Hùng chột, thằng Phượng “mèo” mô, đè thằng Phùng xuống, lột quần hắn ra cho tau!”. Với chúng tôi hồi đó, lời thằng Nghĩa là lệnh (mà mãi đến bây giờ tôi cũng không hiểu chúng có bàn bạc với nhau trước hay không, có lẽ là có thì đúng hơn). Thằng Hùng, thằng Phượng liền xông vào vật thằng Phùng xuống và lột truồng nó ra thật, trước những con mắt trợn tròn vì ngạc nhiên của cả bọn còn lại. Thằng Phùng vừa giãy giụa vừa hét: “Bọn bay làm chi rứa?...”. Thằng Nghĩa móc trong túi ra một con dao nhíp vừa sáng loáng vừa nhọn hoắt, bảo: “Lần ni mà mi không nói với mẹ mi trả trái ban cho choa thì… thì… nhất định tau cắt cu…”. Vừa nói nó vừa quẹt quẹt con dao xuống sân, nghe rất ghê. Thằng Phùng kêu trời: “Mẹ ơi, cứu con…mẹ ơi!...”. Thằng Nghĩa tiếp tục ra lệnh: “Bọn bay quây quanh mấy đứa bọn tao, bà Tương mà ra thì cản bà nớ lại…”. Bọn chúng tôi tuy xanh mặt nhưng vẫn nghe lời nó đứng vây quanh lại (một vài đứa nhát gan đã bỏ chạy về nhà). Lúc đó bà Tương vừa hớt hải từ trong nhà chạy ra vừa thét: “Đứa mô… đứa mô mần chi thằng Phùng đó?...”. Thằng Nghĩa tay vẫn cầm lăm lăm con dao, hét chúng tôi giữ bà Tương lại rồi nói: “Bà mà không trả trái ban lại cho bọn tui thì tui cắt cu thằng Phùng…”. Tuy không đứa nào trong bọn chúng tôi dám giữ bà Tương lại nhưng bà vẫn đứng sững như trời trồng, mắt nhìn con dao trong tay thằng Nghĩa, miệng lắp bắp: “Tau… tau đố… bọn bay dám!...”. Thằng Nghĩa nói: “Ừ, để coi tui có dám không?...”. Vừa nói thằng Nghĩa vừa cầm cu thằng Phùng lên, dí dí nhẹ mũi dao vào. Thằng Phùng kêu thét lên: “Mẹ… mẹ… trả cho bọn hắn, không, thằng Nghĩa cắt… cắt… mất…”. Có lẽ bà Tương sợ một thằng “bán trời” như thằng Nghĩa thì dám làm thật lắm nên bà vội vàng kêu lên: “Thôi, thôi để tau trả, tau trả…”. Vừa nói bà vừa chạy vội vào nhà. Một lúc sau, bà ôm trái bóng ra dằn mạnh giữa sân, miệng hét lên giọng tức tối: “Đó, tau trả cho bọn bay…”. Thấy trái bóng, cả bọn chúng tôi reo lên chạy ùa theo, kể cả thằng Nghĩa, thằng Hùng và thằng Phượng, bỏ mặc thằng Phùng đang lồm cồm ngồi dậy và bà Tương đang đứng trơ ra đó. Chẳng còn mấy đứa kịp nghe được câu bà Tương hăm dọa: “Rồi bọn bay biết tay tau, tau không thua đứa mô hết…”.

Tuy bà Tương dọa thế nhưng rồi cũng chẳng có chuyện gì xảy ra, vì suy cho cùng bà là người ác khẩu chứ không ác tâm.

Về sau thằng Nghĩa nói với chúng tôi: “tau dọa rứa chứ cha tau nói bảo tau cũng nỏ dám cắt cu thằng Phùng nữa là…”.

Còn thằng Phùng, tôi cứ nghĩ, sau chuyện này nó sẽ cạch mặt, không thèm chơi với chúng tôi nữa. Vậy mà không, chỉ hôm sau là nó đã lại cùng chúng tôi lao vào quần thảo trên sân với trái bóng, như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Hình như nó đã kịp nghĩ ra, chỉ có cách đó mới có thể lấy lại trái bóng để mọi đứa (kể cả nó) cùng có chơi. Sau này nó là sĩ quan tên lửa, hy sinh trong chiến dịch mười hai ngày đêm Mỹ đánh vào Hà Nội năm bảy hai (1972).

                              THẰNG CƯỜNG SẸO VÀ CON DẾ CHỌI

Thằng Nghĩa thì không phải, nhưng thằng Cường sẹo thì đúng là đứa bạn thân nhất của tôi hồi đó. Thằng Cường là con bác Đường, trưởng xóm Mười Hai chúng tôi. Bác Đường người đâu ngoài Nam Định tản cư vào Vinh hồi đầu kháng chiến, mấy chị em thằng Cường (Diên, Cường, Hùng, Dũng) đều đẻ trong này, nên tuy vợ chồng bác vẫn nói tiếng Bắc nhưng mấy đứa bọn nó đều nói rặt giọng Nghệ như chúng tôi.

Theo tôi, có lẽ bởi tinh thần phải cùng đoàn kết để cùng tồn tại qua cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua còn lại nên người thị dân ở Vinh ngày xưa sống với nhau đầy ắp tình chòm xóm. Còn nhớ năm sáu lăm (1965), từ nơi sơ tán ở Quỳ Hợp về tìm cha mẹ (cha mẹ tôi theo cơ quan nên không thể đem chúng tôi theo được), tôi có ghé nhà bác với ý định hỏi thăm thằng Cường. Mặc dù tôi không ở xóm Mười Hai đã ba bốn năm và lúc ấy mấy đứa con bác đã sơ tán về Nam Định từ lâu nhưng bác Đường vẫn lo cho tôi ăn ngủ đàng hoàng, khi ra đi bác còn dặn dò phải cẩn thận vì lúc này Mỹ đánh phá rất ác liệt…

Thằng Cường sẹo kém tôi một tuổi nhưng học cùng lớp với tôi, vì nó có một cái sẹo ngay cạnh thái dương nên mới có biệt danh là Cường sẹo. Hai đứa chúng tôi thân nhau lắm, đi đâu cũng có nhau từ học hành, đá ban, tắm sông đến đổ dế (nhất là đổ dế)…

Tôi xa Vinh đúng ba mươi năm mới có dịp trở lại (năm bảy tám (1978), học xong đại học tôi vào Nam, mãi tới năm 2008 mới về lại). Thật ngỡ ngàng khi thấy dấu tích thành cổ Vinh còn lại chỉ là ba cổng thành trơ trọi. Đâu rồi, toà thành sừng sững trong ký ức năm xưa của tôi, đâu rồi những nương lạc, nương ngô của những người dân trong thành mà chúng tôi hay bẻ trộm, nhổ trộm. (Hồi mới hòa bình, hầu như toàn bộ các cơ quan hành chính của tỉnh đều ở trong phạm vi thành cổ, quanh phía trong bờ thành chỉ có lác đác một vài nhà dân. Về sau, các cơ quan chuyển dần ra ngoài, dân trong thành tăng dần lên. Họ sống chủ yếu bằng nghề canh tác các loại rau, củ, quả để tiêu thụ ở chợ Vinh). Đâu rồi nơi chăn bò của dân xóm Yên Nghị mà tôi đã phải nộp hai lon sữa bò gạo mới được bọn chúng cho cưỡi lên lưng bò một lần (lần đầu và cũng là lần cuối của tôi, cho đến bây giờ).. Đâu rồi nơi tôi và thằng Cường thường trèo lên trèo xuống để đổ dế, bắt dế… Dẫu biết sự phát triển và thay đổi là tất yếu, nhưng lòng tôi vẫn thấy buồn thê thiết…

Thằng Cường có biệt tài trong việc đổ dế, bắt dế, mỗi chuyến đi đổ dế với nó chắc chắn sẽ có vài con đưa về. Nó có khả năng phát hiện ra trong một bãi cỏ rộng chỗ nào có dế, chỗ nào không, hang nào dế đã bỏ đi, hang nào dế còn ở… Chọn được hang có dế rồi, nó lần mò tìm những cửa hang phụ (là lối thoát thân của con dế khi bị tấn công ở cửa hang chính, mỗi hang dế đều có một hay hai cửa hang phụ như thế) rồi lấy đất đắp lại. Thích nhất và hồi hộp nhất là khi con dế sặc nước bò dần ra, thấp thoáng hai cái râu ở cửa hang. Mỗi lần như thế, thằng Cường miệng thì giục tôi rối rít: “Thêm nước… thêm nước…mau lên…”, tay thì cầm lon nước đã gần cạn tiếp tục đổ vào hang dế. Tôi vội vàng hai tay hai lon sữa bò chạy như bay xuống hồ thành múc nước, thường mỗi khi lên đến nơi, trao cho thằng Cường hai lon nước xong tôi phải đứng thở hào hển mất một lúc, (từ hồ thành lên đến trên mặt thành phải cao đến bốn, năm mét chứ có phải chơi đâu).

Một lần chúng tôi bắt được con dế thật to, từ đầu đến chót đuôi của nó phải dài đến hai đốt ngón tay của tôi lúc ấy. Đầu đen bóng, trán của nó gồ lên trông “ác chiến” lắm. Cánh nó cũng màu đen nhưng phần cuối ngả sang màu nâu sẫm. Nhưng thích nhất là cặp càng của nó, to, dài và khoẻ, nhìn sướng vô cùng. Con dế của chúng tôi quả là con dế chọi bẩm sinh. Thi đấu hàng chục trận nó chưa bao giờ chiến bại, dế của bọn trẻ trong xóm chưa con nào chịu được nó lâu lâu, thậm chí có con vừa thấy mặt nó đã chạy. Chúng tôi cưng nó lắm. Nhưng được chừng hơn mươi hôm, không hiểu sao con dế trở nên lờ đờ, uể oải, bỏ ăn. Chúng tôi đã tận tình chăm sóc nó bằng nhiều cách: cho ăn bằng những lá cỏ, đọt tre non nhất, hứng sương cho nó uống, thả hẳn ra ngoài vào ban đêm… nhưng rồi nó vẫn chết. Bỏ con dế vào trong một cái vỏ bao diêm, chúng tôi đem chôn nó ở góc miếng đất bé tý trồng rau cải của nhà thằng Cường, ngay cạnh đường cái sát mé hồ thành. Từ sau khi con dế ấy chết, thằng Cường không đi đổ dế và chọi dế nữa. Tôi biết nó buồn vì con dế nhưng nghĩ, chỉ ít lâu nguôi đi rồi nó sẽ chơi trở lại. Nhưng không, có đến vài tháng sau, nó cũng không đả động gì đến chuyện dế cả. Sốt ruột, có lần tôi hỏi nó: “Răng, mi không chơi dế nữa à?”. Thằng Cường thở dài như người lớn, buồn rầu trả lời: “Tau thương bọn hắn quá!..”!

Năm đó chúng tôi đang học lớp bốn…

                                       NHẤT QUỶ NHÌ MA...

Đã định không viết, vì chuyện nghịch ngợm quỷ quái của học trò vốn như người ta thường nói là “ xưa như trái đất” (có lẽ nó đã có từ thuở có lớp học đầu tiên và đứa học trò đầu tiên, cách đây hàng ngàn năm). Vả lại trong tập bút ký này tôi cũng đã rải rác nói về chuyện ấy rồi, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy cũng cần viết thêm vài chuyện.

Tôi mê đọc sách từ nhỏ, nổi tiếng có thể đọc sách bất cứ nơi đâu và bất cứ giờ nào. Tôi có thể cầm quyển sách vừa đi vừa đọc từ nhà đến trường và từ trường về nhà mà không hề vấp váp vào ai và vào cái gì (ấy là ngày xưa, xe ít, người ít chứ như bây giờ thì chắc không sống nổi một ngày). Đọc ngoài lớp không đủ, tôi đem cả sách vào lớp để đọc. Vì chuyện đọc sách trong lớp mà tôi đã đánh thằng Vũ Ngọc Luân (lớp trưởng của tôi lúc ấy) do nó tố cáo với cô và tôi bị tịch thu mất quyển “Chiếc khuy đồng” tôi vừa mượn được. Hậu quả là tôi bị đuổi học mất một tháng và cuối năm ấy phải ở lại lớp.

Mê sách thì mê vậy nhưng nhà thì không lấy gì làm khá giả, anh chị lớn không có, cha mẹ lầm lụi vì công việc không chú ý gì đến nhu cầu sách vở của con cái. (Tôi còn nhớ suốt đời cha tôi chỉ mua cho tôi hai cuốn sách là “Sống như anh” và “Bất khuất”, khi cha tôi đã về hưu và đúng vào những năm sáu bảy (1967), sáu tám (1968) là những năm rộ lên phong trào học tập Nguyễn Văn Trỗi và Nguyễn Đức Thuận). Nên có thể nói hồi ấy cái thiếu làm tôi khổ sở nhất là thiếu sách, vì thế cứ có thì giờ rảnh là tôi lại đến thư viện để đọc sách. Lúc ấy cả thành phố chỉ có một thư viện duy nhất nằm ở vườn hoa trung tâm. Trong thư viện có một phòng đọc dành riêng cho thiếu niên không cần thẻ bạn đọc, tôi thường xuyên rủ thằng Thắng đến đây đến nỗi hầu như các cô thủ thư đều nhẵn mặt chúng tôi. Nhưng các cô không ngờ rằng chúng tôi đến để đọc sách thì ít mà ăn cắp sách thì nhiều. Có điều chỉ có tôi là dám ăn cắp sách bất cứ khi nào có thể, cón thằng Thắng vốn nhát gan lại là con thầy giáo nên sau một vài lần ăn cắp hắn thấy sợ hãi hay áy náy sao đó nên không dám nữa. Theo con mắt quan sát của tôi hồi ấy thì không chỉ có mình tôi mà còn một vài đứa nữa cũng làm cái trò “hô biến” sách của thư viện. Trẻ con thì quỷ quái, mấy cô thủ thư lại hiền lành thật thà nên dễ dàng bị qua mặt. Sách trong phòng bày đầy một dãy bàn dài cho người đọc (là bọn trẻ con chúng tôi) tự chọn. Thường thì tôi đảo qua đảo lại các cuốn sách trong hàng, mang từ hàng này qua hàng khác gọi là chọn sách, (làm như thế để mấy cô thủ thư trong nhất thời không phát hiện ra thiếu những quyển nào ở hàng nào). Nhìn tới nhìn lui nhằm lúc cô thủ thư không để ý liền lấy luôn một lúc hai cuốn (có ai lại đọc một lúc hai cuốn sách bao giờ). Chọn một góc khuất, tôi giở ra một cuốn để ngay ngắn trước mặt rồi loay hoay giấu cuốn kia vào người. Tôi nhiều chỗ giấu lắm: giắt vào lưng, giắt vào bụng, vào đùi (buộc sẵn ở đùi một vòng dây cao su, khi cần thì vén ống quần bà ba rộng thùng thình lên giắt sách vào, thế là yên). Suốt hai năm tôi học cấp hai ở Vinh, thư viện thành phố đã mất cho tôi đến vài ba chục cuốn sách là ít.

Một lần thật không may, tôi bị “Tổ trát” (nói theo kiểu người miền Nam bây giờ). Sau khi giấu sách sau lưng, giả vờ ngồi đọc một hồi, tôi trả cuốn sách đang đọc và ra về. Sắp ra đến cửa bỗng nghe tiếng gọi của cô thủ thư: “Em tê..em tê...”, tôi hơi giật mình nhưng nghĩ là cô gọi ai (vì trong phòng có nhiều đứa đang đọc) nên vẫn thản nhiên bước tiếp. Nhưng tiếng gọi giật giọng của cô: “Em đang đi ở cửa đó, quay lại...) làm tôi không thể thản nhiên được nữa, đành quay đầu nhìn lại với bộ mặt thật thà nhất trên đời:

- Chi rứa chị?

- Em giấu cái chi sau lưng đó, vô đây…

Thì ra sau khi giắt quyển sách vào sau lưng, tôi vô tình để áo gấp vào giữa sách và lưng mà không để ý. Khi tôi ra cửa, cô thủ thư dù vô tình nhìn thấy thì cũng phát hiện ngay ra...đứa kẻ cắp. Biết là bị lộ rồi, tôi vội vàng rút quyển sách ra, vất tọt xuống đất rồi cắm cổ chạy... Từ đó tôi cạch, không dám bén mảng đến thư viện nữa...

... Một lý do quan trọng nữa để tôi viết thêm phần “nhất quỷ...” này là món nợ tinh thần của mấy đứa bọn tôi đối với cô Cúc, cô giáo dạy tiếng Nga cho chúng tôi hồi lớp năm.

Bàn chúng tôi có bốn đứa: thằng Lê Kỳ, thằng Trần Ngọc Hồng, thằng Bùi Thắng (đã có dịp nói về nó ở trên) và tôi. Hôm ấy đang giờ của cô Cúc, cả lớp đang chăm chú nghe giảng, bỗng nhiên thằng Lê Kỳ tuồn sang cho thằng Hồng một tờ giấy vẽ hình một người con gái mà chỉ thiếu mấy cái răng vổ nữa là giống hệt cô Cúc. (Thằng Lê Kỳ là học sinh miền Nam tập kết, là “con nhà”, học giỏi lại rất có hoa tay về vẽ. Có điều từ ngày chia tay vì chiến tranh chúng tôi bặt tin nó đến tận bây giờ). Thiếu thì cho thêm, thằng Hồng liền vẽ vào đó mấy cái răng vổ rồi chuyển cho thằng Thắng. Thằng Thắng ngu ngốc, còn sợ người ta không biết người trong bức vẽ là ai nên viết thêm vào đó hai chữ “cô Cúc” rồi chuyển cho tôi. Tôi còn ngu ngốc hơn khi lấy tay bịt đi hai chữ cô Cúc rồi quay lại hươ hươ trước mặt bọn bàn dưới: “Tau đố bay ai đây?...”. Thế là cả hai bàn cùng bịt miệng lại cười. Đang cười như thế, tôi bỗng thấy cả bọn nín bặt rồi tờ giấy trên tay bị ai lấy đi mất. Giật mình quay lại, tôi hết hồn vì cô Cúc đang cầm tờ giấy trên tay. Cô nhìn qua tờ giấy rồi thản nhiên gấp lại quay về bàn giáo viên để vào giữa quyển giáo án rồi tiếp tục giảng như không có chuyện gì xảy ra. (Tuy thế, sau này nghiệm lại tôi thấy hình như có một khoảnh khắc rất nhanh mặt cô hơi tái đi). Cuối giờ học, cô bảo mấy đứa bọn tôi ở lại và nói nhẹ nhàng: “ Các em lo học đi, đừng ngồi vẽ bậy vẽ bạ trong lớp nữa... có hứa với cô không?...”.

Tất nhiên cả bọn chúng tôi cúi gầm mặt và lí nhí hứa với cô... Chuyện chỉ đến đây rồi thôi không có gì xảy ra về sau nữa, mặc dù chúng tôi mất nhiều ngày lo lắng.

Chuyện ấy mà xảy ra bây giờ (mà không phải chỉ bây giờ, nếu ngày ấy chuyện xảy ra với một ai khác chứ không phải là cô Cúc) thì đã thành to chuyện rồi, vì đó là một lỗi rất nặng. Nhẹ ra cũng phải cảnh cáo trước trường hoặc phải mời cha mẹ đến “làm việc” thì mới được vào lớp. Thậm chí nếu có ai đó nâng lên thành hành vi nhục mạ giáo viên thì có khi chúng tôi bị đuổi học cũng nên. Nhưng mấy đứa kia thì còn hy vọng bị cảnh cáo này nọ (nếu chuyện được đưa ra hội đồng nhà trường) chứ với riêng tôi thì bị đuổi học là cái chắc vì cách đó không lâu tôi đã bị cảnh cáo dưới cờ rồi. Số là hồi ấy ở Vinh mỗi dịp gần tết có phong trào chơi “súng diêm”: một miếng gỗ được cắt theo hình báng súng lục, nòng là một đoạn gọng ô, bộ phận nổ là một “van” xe đạp, có kim hỏa đàng hoàng. Khi bắn thì nhồi thuốc diêm vào van, nện chặt rồi kéo kim hỏa lên nấc sau của báng súng (kim hỏa được tạo lực bằng một giây cao su mạnh, thường được làm bằng “săm” xe đạp), rồi đẩy ngược cho kim hỏa bật khỏi nấc giữ và đập vào thuốc diêm trong van.

Tiếng nổ của súng diêm to lắm, to hơn tiếng pháo tép nhiều. Lại nữa, khi mang khẩu súng ấy bên người, ta (lúc còn là một đứa trẻ, tất nhiên) thường có cái ảo giác là đang mang vũ khí bên mình, tự nhiên thấy mình “oai vệ” hẳn ra. Vì thế lũ trẻ chúng tôi đua nhau làm, chỉnh sửa, trang trí sao cho súng của mình phải đẹp hơn và nhất là phải nổ to hơn của những đứa khác. Đi đâu chúng tôi cũng mang nó kè kè bên mình, đi chơi, súng nằm trong túi, đi học súng nằm trong cặp sách.

Hôm ấy, vào đầu một tiết học (tôi không nhớ là tiết gì), cả lớp đang yên lặng chuẩn bị nghe bác Tường (lao công của trường) đọc thông báo thì bỗng nghe một tiếng nổ “đòang” như sét đánh. Tôi nói như “sét đánh” dù có hơi quá một tý nhưng quả thật tiếng nổ to lắm vì tiếng súng vốn đã to lại ở trong một không gian khá hẹp, đang yên lặng nên nó vang lên ghê gớm. Cả lớp như bị điện giật đều hướng về phía có tiếng nổ thì phát hiện nó xuất phát từ nòng khẩu súng của... tôi. Thế là tôi bị cảnh cáo toàn trường. Cả thầy cô và bạn bè (kể cả những thằng bạn thân như thằng Hồng, thằng Thắng) không ai tin rằng phát súng ấy của tôi là vô tình. Nhưng thề có trời đất, tôi không hề cố ý. Tôi chỉ không nhớ đã nhồi thuốc vào súng từ lúc nào, ham quá lại nhân khi thầy không giảng bài, tranh thủ kéo kim hỏa lên và bật để có thể nghe tiếng kim hỏa đập vào van cho đỡ thèm (theo cách nói của Nam bộ bây giờ là cho đỡ ghiền) không ngờ dẫn đến việc động trời ấy...

Lớn lên, trưởng thành rồi, có dịp quay đầu nhìn lại, chúng tôi mới hiểu được nỗi đau sâu kín nhất của người con gái mà trời đã bất công không ban cho họ sắc đẹp và nhất là đã thấm thía được tấm lòng độ lượng bao dung của cô chúng tôi lớn đến chừng nào. Chỉ tiếc rằng từ ngày chiến tranh xảy ra chúng tôi không được gặp lại, cũng không được tin tức gì về cô.

Cô ơi, dù không được gặp lại cô nhưng những gì cô đã làm cho chúng em không hề uổng đâu, tấm lòng vị tha của cô đã ngấm vào máu thịt tụi em trong suốt quãng đời còn lại, giúp cho tụi em tin vào cuộc đời, ngay cả trong những ngày gian khó nhất và sống với cuộc đời tốt đẹp hơn.

                                 CU ĐỒ VÀ CHÚNG TÔI

Ở Vinh, vào những năm cuối thập niên năm mươi, đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ trước có một nhân vật đăc biệt mà những đứa trẻ lứa tuổi tôi không thể nào không biết: Cu Đồ. Nhân vật này đặc biệt không phải vì một cái gì nổi trội như giàu sang hay quyền thế (nếu như thế thì chúng tôi đã không thèm biết rồi), mà đặc biệt vì đây là một người đàn bà điên.

Không ai biết Cu Đồ là người ở đâu và đến Vinh từ lúc nào. Người ta đồn rằng Cu Đồ là con nhà khá giả, được học hành tử tế, đã đỗ bằng “Thành chung”, thậm chí là “Tú tài” của Pháp nhưng bị phụ tình mà phát điên rồi trôi giạt đến Vinh. Điều đó có lẽ có phần đúng, vì trông chị ta khá sạch sẽ, gương mặt sáng sủa, tóc cắt ngắn kiểu con trai (có lẽ vì thế mà được người ta gọi là “cu Đồ” dầu chị ta là gái). Chị ta lại nói tiếng Pháp rất giỏi, trên tay luôn cầm một tờ báo tiếng Pháp (tất nhiên là đã cũ từ thưở nào).

Tôi đã có lần thấy chị ta vừa đi vừa đọc to lên thành tiếng tờ báo tiếng Pháp đang cầm trên tay và có người đi đường biết thứ tiếng này vừa lắc đầu như thương hại vừa khen: “Tội nghiệp… tiếng Pháp chuẩn lắm!...”. Bình thường người ta chỉ thấy Cu Đồ tay ve vẩy tờ báo, miệng nói lảm nhảm gì đó không rõ thành tiếng, tạo cho người mới gặp lần đầu cảm giác: “Người này hơi ngây ngây…” ( “ngây ngây” là từ mà hồi đó người ta dùng để chỉ những người hơi ngơ ngẩn, đầu óc có chút không bình thường). Chỉ khi gặp một người đàn ông đẹp trai, ăn mặc lịch sự, hơi có vẻ trí thức một chút thì tính điên của Cu đồ mới lộ rõ. Những khi ấy thế nào chị ta cũng nhào đến, ôm chầm lấy ngưới ấy mà kêu lên: “Đây rồi… anh của em đây rồi!…”, rồi chị ta khóc: “Răng anh lại bỏ em mà đi?…”. Người đàn ông nếu là lần đầu đến Vinh, chưa gặp chị ta bao giờ thế nào cũng hoảng lên, giãy ra và bỏ chạy, nhưng càng chạy thì Cu Đồ càng đuổi theo. Nếu là người quen với cảnh này thì sẽ để mặc chị ta vuốt ve sờ vai, sờ mặt một lúc thì thế nào chị ta cũng nhận ra, miệng lẩm bẩm: “Ơ… anh… không phải anh…” và bỏ đi với dáng điệu xấu hổ của một người đã nhận lầm người.

Tuy điên như vậy nhưng có lần người ta lại thấy sự lạ là Cu Đồ có thai. Khi cái thai đã thật lớn, tự nhiên Cu Đồ biến mất khỏi Vinh một thời gian mấy tháng rồi lại trở lại với nếp sinh hoạt xưa, cái thai đã biến mất. Có lẽ vì thế mà đã có người đặt ra mấy câu quái quỷ, chẳng ra thơ, chẳng ra hát, cũng chẳng phải vè và bày cho chúng tôi:

Cu Đồ đã có chồng chưa?

Thưa với cậu em chưa có chồng

Chưa có chồng sao lại bụng to?

Thưa với cậu em cho họ nằm

Cho họ nằm có lấy tiền không?

Thưa với cậu em không lấy tiền…

Mỗi lần gặp Cu Đồ lang thang trên đường phố là chúng tôi lại bao vây lấy chị ta và “hát” vang lên mấy câu ấy. Những khi như vậy bao giờ Cu Đồ cũng nổi giận. Chị ta miệng thì chửi, tay thì nhặt những hòn đá lăn lóc trên mặt đường, vừa đuổi vừa ném lung tung về phía chúng tôi. Còn lũ chúng tôi thì vừa chạy dạt ra tứ phía vừa cười như nắc nẻ và cứ hát đi hát lại mấy câu trên. Chúng tôi càng hát thì chị ta càng đuổi mà chị ta càng đuổi thì chúng tôi càng hát. Những cuộc đuổi bắt giữa một người điên và những đứa trẻ con thường làm náo loạn cả một đoạn phố dài. Khi không đuổi bắt được chúng tôi, cu Đồ thường ôm mặt khóc nức nở trông thật tội nghiệp, nhưng thuở ấy chúng tôi nào có biết gì…

Rồi chiến tranh nổ ra, lũ trẻ chúng tôi tứ tán khắp nơi theo những ngày sơ tán cùng gia đình. Cũng từ đó không ai biết số phận Cu Đồ ra sao…

Ôi! Những trò chơi con trẻ.

                                                            III

                                       MIẾNG NGON NGÀY CŨ

... Cách đây độ vài năm, trong một dịp tình cờ hiếm hoi tôi được gặp lại mấy thằng bạn nối khố cũng người Vinh. Thật là một dịp để những đứa trẻ của ngày xưa đổ ra những chuyện trên trời dưới đất, những chuyện dại chuyện khôn ở Vinh ngày trước. Ngày mà tất cả chúng tôi còn là những đứa trẻ mười hai mười ba, thật hồn nhiên ngây ngô và khờ dại. Rồi không biết có đứa nào trong số chúng tôi tự nhiên hỏi: “Tao đố chúng mày, nhớ nhất ở Thành Vinh ngày ấy là điều gì!...”. Thế là tất cả ồn ào cả lên. Đứa thì nói nhớ nhất là những bè tre, bè nứa đậu chật kín bên sông Cửa Tiền và những lần lăn xả vào để mót những đầu nứa gãy về làm củi đun, bất chấp những ngọn roi tre của những người làm công bốc vác cho chủ mua quất vun vút trong không khí phía trên đầu. Đứa thì bảo nhớ nhất là những buổi đổ dế trên bờ thành, “hồi hộp nhất là khi con dế đã thò ra cả nửa cái đầu đen trũi, thế mà chỉ vì thiếu mất nửa lon sữa bò nước nó lại thụt vào mất, tiếc thế…”…. Thế mà khi tôi nói: “Tao thì tao nhớ nhất ở Vinh là hàng quà và những tiếng rao quà!...”. Sau một phút sững sờ như ớ ra, hầu như tất cả đều cười phá lên và gật đầu lia lịa: “Đúng!... Đúng!..”… Thì ra không chỉ có tôi nhớ đến những hàng quà của Vinh.

Tài tình là cái ông Vũ Bằng khi tả về các món ăn Hà Nội. Thực tình mặc dù tôi đọc Vũ Bằng không nhiều nhưng tôi yêu Vũ Bằng, nhất là khi Vũ Bằng viết về ẩm thực. Và theo đánh giá của riêng tôi thì Vũ Bằng là nhà văn viết về ẩm thực giỏi nhất Việt Nam. Thú thật, mỗi lần đọc tới những câu:

“Bánh thơm dìu dịu. Cầm một chiếc, dầm vào trong chén nước chấm rồi đưa lên miệng, ta sẽ thấy cả một sự tiết tấu nhịp nhàng của bánh thơm dịu hòa) với nước chấm dịu hiền, không mặn quá, không chua quá mà cũng không cay quá…”(1)

Hay: “… Thực vậy, món dựa mận, muốn ăn cho ra ăn, cần phải làm công phu rất mực… Thịt chó thơm mà ngọt, thui vàng ngầy ngậy lên rồi, đem ra nấu dựa mận mà không quánh, đưa bát đựng dựa mận lên ngang mặt, nheo một con mắt lại mà không thấy nổi lên những rằn ri của bảy sắc cầu vồng, thế là chưa biết nấu…” (2).Và: “… Thoạt mới dùng, ta thấy nó dìu dịu, hiền hiền, nhưng điểm mấy lá húng chó vào rồi đưa đi mấy lá bún trắng tinh, chấm vào cái thứ nước đặc quánh một màu đào mận, ta thấy nhạc điệu khác hẳn đi, khác nhưng từ từ, chậm chậm, theo thứ tự từng gam một, chớ không lỡ điệu đột ngột.

Khẩu cái ta như nhảy múa tưng bừng, có lắm lúc tưởng như có cái gì sắp “hỏng kiểu”, làm cho ta hơi sợ; nhưng tài tình chính là lúc ta sợ như thế thì sự ngang trở uyển chuyển vượt qua một cách thần diệu và tạo nên một nét nhạc mới thần tình đến lạ lùng…”.(3).Tôi lại cũng muốn vỗ đùi đánh đét mà kêu lên như nhân vật Hoàng trong truyện “Đôi mắt” của Nam Cao, mà có người cho rằng Vũ Bằng chính là nguyên mẫu của Hoàng:

- Tài thật, tài thật… Tài đến thế là cùng… Tiên sư ông Vũ Bằng…

(Kính mong hương hồn nhà văn Vũ Bằng tha cho con cháu cái tội bất kính).

Có điều,Vũ Bằng tài hoa, cái đó đã hẳn. Nhưng cái cơ bản chính là các món ăn Hà Nội tự nó đã ngon, tinh tế và cả thanh lịch nữa. Có thể nói nếu không có ẩm thực Hà Nội thì Vũ Bằng không thể viết về ẩm thực hay đến thế.

Nếu được phép lấy ra ba thành phố lớn, đại diện cho ba miền để nhận xét về ẩm thực truyền thống (và chỉ trong phạm vi ẩm thực truyền thống thôi, ngày nay thì đã khác lắm rồi) thì theo tôi: Sài Gòn còn hơi có vẻ xô bồ, phức tạp. Điều này có lẽ bởi sự tiếp thu quá nhiều nền ẩm thực trong những trăm năm Nam tiến; mà thời gian còn ngắn chưa đủ để chắt lọc lấy những gì tinh tuý nhất chăng? Hay như một người bạn thân của tôi nhận xét: ẩm thực Sài Gòn phát triển theo hướng phong phú bất định hình? Huế thì điệu đà, kiểu cách hơi quá đáng. Có lẽ là bởi sự cố tạo ra của một kinh đô còn mỏng về bề dày thời gian chăng? Chỉ có Hà Nội là thực sự lịch lãm, tinh tế trong ăn uống. Hà Nội có nền móng là bề dày lịch sử của một kinh đô cổ kính hàng ngàn năm. Đó chỉ là một sự so sánh chứ không có ý phân biệt gì đâu nên kính mong những ai không đồng ý với tôi lượng thứ.

Còn Thành Vinh của tôi? Tuy là một trong mấy thành phố lớn của miền Bắc trước đây thật, nhưng dẫu sao Vinh cũng chỉ là đô thị của một tỉnh lẻ. Tỉnh lẻ về bất cứ phương diện nào, càng tỉnh lẻ hơn nếu xét riêng về mặt ẩm thực. Vì đã là tỉnh lẻ nó còn là một vùng đất mới, một vùng “đất trại”. Từ thời nhà Lý nước ta được “chia” thành hai phần “đất kinh” là phần đất cũ của người Việt từ Ninh Bình trở ra và “đất trại” là vùng biên viễn mới mở rộng sau này gồm đất Thanh Nghệ trở vào. (Ngày trước khi lấy Trạng nguyên thì bao giờ trạng nguyên trại cũng được lấy nhẹ hơn trạng nguyên kinh một chút để tỏ ý triều đình khuyến khích nhân tài vùng đất mới).
Vâng, nói như thế để thấy, rõ ràng về ẩm thực thành phố chúng tôi không thể so sánh với kinh kỳ được, dù bản thân sự so sánh đã là khập khiễng rồi. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chúng tôi không có những nét riêng của mình, những món ngon của riêng mình, cho dẫu chỉ là ngon với chúng tôi thôi, còn người ngoài thì không hẳn.

                                 CHÀO NGÀY MỚI

Theo ký ức tuổi thơ của tôi thì những món ăn đáng nhớ nhất của thành Vinh lúc ấy là những món quà sáng.
Dù mưa hay nắng, mùa nóng cũng như mùa rét, bao giờ tiếng rao quà đầu tiên qua trước nhà tôi, vào lối năm giờ năm rưỡi sáng, cũng là tiếng rao của người bán bánh mỳ: “Bánh mỳ…đơi… bánh mỳ xa xíu nóng dòn … đơi…” như một lời chào ngày mới. Có ai biết bánh mỳ xa xíu là bánh mỳ gì không? Bây giờ có lẽ không ai biết và cũng không còn ai nhớ nữa đâu. Bánh mỳ ở Vinh hồi ấy có hai loại và đều là hình chữ nhật chứ không tròn dài như bây giờ: bánh mỳ không thì trên mặt không có gì cả. một loại khác thì trên mặt có mấy miếng tóp mỡ nhỏ (có lẽ những miếng mỡ nhỏ được đặt lên bánh trước khi đem nướng nên khi chín bánh có vẻ bóng mỡ óng ả trông rất ngon lành). Đấy, bánh mỳ xa xíu đấy. Giá bánh mỳ không thì 5 xu, bánh mỳ xa xíu thì một hào. Thứ bánh mỳ xa xíu ấy giá bây giờ cho tụi trẻ chúng chẳng thèm ăn đâu, nhưng đối với chúng tôi ngày ấy, nó như món thời trân thượng hạng mà ít khi nào được nếm (nhất là với những đứa trẻ xóm nghèo như xóm tôi ở). Thỉnh thoảng lắm, nếu tình cờ có được một hào (như bà ngoại dúi cho chẳng hạn) bao giờ tôi cũng để ăn bánh mỳ xa xíu, có khi trằn trọc cả đêm không ngủ được chỉ sợ quên, lỡ người bán bánh đã đi qua mất… Tuy vậy đến sáu giờ sáng mới là giờ rộn rịp, vì đây là thời gian mà nhà nào cũng sắp sửa ăn sáng, chuẩn bị đi làm. Lúc này các tiếng rao quà mới lảnh lót vang lên. Đầu tiên là những tiếng: “ai bắp nếp…”, “ai xôi bắp…” mà ai mới đến Vinh lần đầu nghe thật lạ tai: đã “bắp nếp” lại còn “xôi bắp”. Nhưng đối với dân Vinh và cả với lũ trẻ chúng tôi ngày ấy thì chẳng có gì là lạ cả vì đó là hai món quà sáng khác nhau, dù bắp nếp hay xôi bắp thì cũng làm từ bắp cả thôi. Người ta đem luộc kỹ những hạt bắp nếp trong nước có pha thêm ít vôi cho tróc lớp vỏ lụa bên ngoài (nóí thì dễ thế chứ việc pha bao nhiêu vôi vào nước luộc bắp cũng phải có kinh nghiệm, ít quá không tróc vỏ luạ, nhiều quá món bắp nếp hay xôi bắp sau này bị nồng mùi vôi). Bắp đãi vỏ xong rồi đem hầm lên, khi bắp đã được hầm chín, nhìn bề ngoài như chỉ mới hơi nở ra nhưng bên trong thì đã chín kỹ, mềm và dẻo lắm rồi. Những hạt bắp chín đến độ vừa đủ để kết dính lại với nhau mà không rã ra nhưng cũng không nhão nhoẹt như món bắp xay hầm của miến Nam bây giờ. Với món bắp nếp thế là coi như xong, có thể mang đi bán được rồi. Khi có người mua thì tùy tiền mà xúc nhiều hay ít gói vào miếng lá chuối, bên trên có rắc ít đậu trắng nấu chín nghiền nhỏ. Xôi bắp thì bắp hầm vừa chín tới, đem trộn đều với nếp đã vo và ngâm từ trước đem đồ chung lên, khi xôi chín thì bắp cũng vừa nở ra. Khi bán thì cũng gói vào lá chuối, nhưng rải bên ngoài không phải là đậu trắng mà là đậu xanh, trên mặt còn được rắc ít hành phi và mỡ nước. Mùi bắp hầm, mùi hành phi, mùi mỡ nước quyện vào nhau thơm đến nức mũi. Mà người bán xôi bắp cũng quả là tài tình. Tôi nhớ có lần đi mua xôi bắp cùng mẹ, nhìn bà hàng rưới mỡ và hành phi vào gói xôi bắp, mẹ tôi khen: “Nhìn tay bà làm khéo quá!...”. Mà khéo thật, một thìa cà phê vừa mỡ nước vừa hành phi thì có được là bao, vậy mà trong tay bà hàng nó được rải đều khắp gói xôi, không sót chỗ nào, và gói xôi bắp cũng tự nhiên sinh động hẳn lên, hình như thơm hơn, mời mọc hơn lúc trước rất nhiều. Âu cũng là nhờ nghề mà sống vậy… Ai nhiều tiền hoặc muốn ăn ngon thì ăn xôi bắp, dân lao động nặng như bốc vác, thợ nề… thì ăn bắp nếp, vừa rẻ vừa chắc dạ, no lâu.
Nhân đây cũng nói thêm một chuyện ngoài lề. Ở xứ Nghệ quê tôi ngưới ta gọi lúa là ló. Cái đó chẳng có gì lạ, nhưng cái lạ là hồi đi bộ đội, đóng quân ở Anh Sơn, trong nhà dân. Một buổi chiều tôi nghe bà chủ nhà bảo đứa con gái: “Ra nương bẻ ló, tối nướng cho các anh bộ đội ăn…”. Tôi ngạc nhiên: “Sao lại là bẻ ló?...”. Lát sau cô gái từ nương vào, tôi càng ngạc nhiên hơn khi thấy cô bưng vào một thúng nhỏ toàn trái bắp. “Ló là ló, bắp là bắp, sao lại gọi bắp là ló?...”, tôi mang thắc mắc trong người nhiều năm mà không hỏi ai được. Mãi tới khi đọc Vũ Bằng tôi mới biết không chỉ quê tôi gọi bắp là lúa mà cách gọi vậy còn có ở một số địa phương khác. Nhưng sao lại có sự gắn kết khập khiễng, thậm chí tréo nghoe đến thế? Nhưng ngẫm cho kỹ thì cũng chẳng có gì khập khiễng hết. Phải biết rằng đối với người nông dân ngày xưa, khi mà nền nông nghiệp lúa nước vẫn còn nhiều bấp bênh thì lúa và ngô là hai sản phẩm không thể tách rời nhau. Và khi đã là hai sản phẩm cứu cánh không thể tách rời nhau thì cách gọi như gắn kết cũng là sự thường...
Sau những tiếng rao bắp nếp, xôi bắp một chút là tiếng rao không kém phần lảnh lót mà rõ ràng như có ý cạnh tranh là tiếng: “Ai xôi hành mỡ…”. Khác với hàng bắp nếp, xôi bắp gánh đi cả gánh, bà bán xôi hành mỡ chỉ có một cái mủng (thúng nhỏ) đội trên đầu. Khi có người gọi mua, bà đặt mủng xuống giở cái vỉ đan bằng cói ra. Cả một vùng nhỏ bỗng nhiên như mờ mịt đi vì làn hơi bốc ra từ thúng xôi (nhất là những sáng mùa đông): Mùi hành lá mùi mỡ nước bốc lên thơm lừng như mời gọi. Nhìn những hạt xôi bóng nhẫy những mỡ, lại điểm lấm tấm màu xanh của những cọng hành lá xắt ngắn có lẽ không có đứa trẻ nào cưỡng lại được sự cám dỗ của nó…
Khoảng bảy giờ rưỡi những tiếng rao quà sáng mới kịp dứt đi thì chừng tám rưỡi, chín giờ (khi mà bụng của những đứa trẻ đang tuổi lớn vừa kịp ngót đi). Thì đây, lại có tiếng rao mới: “Ai khoai đường độ (đậu)…”. Các bạn người khác xứ và có lẽ cả bọn trẻ ở Vinh bây giờ chắc không hình dung ra được nó là món gì đâu. Thì đúng như là tên gọi nó đấy thôi, chỉ là khoai với đường và đậu. Những lát khoai xắt mỏng phơi khô mà người nông dân thường để dành vào ngày ba tháng tám (thậm chí là cả khi không phải ngày ba tháng tám) đem độn với gạo thành một thứ cơm lẫn lộn với khoai mà quê tôi gọi là “cơm hấp khoai”. Khoai bây giờ được người ta nấu chín kỹ rồi đánh nhuyễn (ở xứ Nghệ công việc đánh nhuyễn này được gọi là “xéo”: xéo khoai), đậu đen dược đồ lên rồi cũng được xéo nhuyễn. Hai thứ này được để riêng nhưng trong cùng một mủng, đường phên (đường thẻ) cũng được cạo nhuyễn và để riêng trong một bát, một cái lọ thủy tinh… Khi bán thì cào cào một ít khoai và đậu trộn lẫn vào nhau, rắc thêm ít đường, đánh lại cho đều cũng gói vào lá chuối như khi bán xôi hay bắp. Thế thôi, chỉ có thế thôi mà đối với chúng tôi (những đứa trẻ thành Vinh ngày ấy) đó là một món ăn hấp dẫn làm sao, nhất là vào những giờ “linh”, khi mà bụng đã bắt đầu réo nhẹ, giờ cơm thì còn lâu. “Khoai đường đỗ” quyến rũ đến nỗi hồi đó chúng tôi đã có câu hát:

Khoai đường độ
Ăn dỗ tiền ta
Mẹ tau đập tau
Tổ cha khoai đường độ…

Và rồi còn nhiều thứ khác nữa như cháo canh, cháo lươn… ôi thôi đủ thứ

                             NGÀY XƯA CỦA MẸ

Có lẽ món canh mà những ngày ở Vinh tôi thường được ăn nhất và cũng được nhớ nhất là món canh hến. Thường ngày cứ khoảng mười giờ, mười rưỡi bao giờ cũng có người gánh hến đi bán dạo quanh xóm. Người bán hến gánh hai đầu hai thùng gỗ đựng nước luộc hến đã lọc kỹ và một cái rổ đựng đầy ruột hến đặt ở bên trên, người mua thì đem theo một bát to dùng để đựng canh (ở xứ Nghệ bấy giờ không hiểu sao người ta gọi thứ bát đó là bát “ô tô”) và một cái xoong nhỏ. Khi có người mua, người bán hến đặt gánh xuống giở cái vỉ đậy trên rổ ruột hến ra. Năm xu một bát, một hào hai bát nhỏ (thứ bát ăn chè bây giờ) đổ vào cái bát to đó. Người mua chìa ra cái xoong nhỏ, người bán liền múc vào đấy vài gáo nước luộc hến, tuỳ theo số tiền mua hến. Có cái buồn cười là hầu như bao giờ cũng có sự năn nỉ xin thêm ít nước hến của người mua và sự từ chối của người bán. Bạn có thể nghĩ: “Một chút nước luộc hến thôi có gì mà quan trọng thế?”. Ấy! Quan trọng lắm đấy, nước hến làm nên hương vị món canh hến, sự ngọt ngào của món canh hến được làm nên bởi nước hến. Không có nó thì không thành canh hến: nồi canh đểnh đoảng vô cùng, dù có bỏ thêm bao nhiêu ruốc (mắm tôm) cũng không thể ngon được. Nước và hến ấy đem về, có thì cho thêm ít mắm tôm (ngày ấy đã làm gì có mỳ chính), không có hay không sẵn thì thôi cũng chẳng sao, riêng nước hến không cũng đủ ngọt chán rồi. Nấu canh với rau tập tàng: vài lá rau dền cơm, ít lá mồng tơi, ít lá rau ngót…đập thêm vào đó một tép gừng nhỏ thế là đã thành nồi canh tuyệt hảo rồi. Thứ canh hến ấy mà ăn với cà pháo thì… khỏi nói. Thứ cà nghệ ruột không hẳn trắng mà hơi vàng, cùi dày, ít hạt, muối cho thật vừa ăn, bỏ vào miệng nhai cứ dòn tan… như pháo nổ (có lẽ cái tên cà pháo bắt đầu từ đây chăng?). Không cần thức ăn gì cầu kỳ, có khi chỉ cần bát canh hến, mấy quả cà ăn cũng đủ chết cơm rồi. Thử tưởng tượng trưa xứ Nghệ nắng như thiêu như đốt, lại những ngọn gió nam cào nam cuốc, nóng hút đến khô người thì giá trị của bát canh hến ngọt ngào, quả cà giòn không nói cũng biết lớn đến chừng nào. Ừ! mà cũng lạ là từ ngày xa Vinh đến bây giờ tôi chưa từng được ăn lại món canh hến ấy (dù đã được ăn rất nhiều món ăn làm từ hến), không biết nó còn ngon như ngày xưa nữa không và cũng không biết ở Vinh bây giờ còn có người bán hến dạo để cho người ta nấu canh hến nữa không?...
Không hiểu sao, mỗi khi nhớ lại những món ăn ngày xưa mẹ nấu, món nào tôi cũng thấy ngon cả. Này là món “mắm nục” kho (hồi ấy chưa có ai chở nước đá đi biển nên người ta dùng muối ướp cá để có thể để lâu được khi đi biển dài ngày, mắm nục là một dạng cá ướp ấy): Cá mắm, một chút mỡ nước, một vài tép hành lá, một chút ớt bột, vài cái vỏ quýt. Thế thôi, thế mà nó mới ngon làm sao, vị ngon vủa nó cứ bám riết lấy ký ức của tôi cho tới nửa thế kỷ sau vẫn không sao quên được. Sau này tôi đã cố gắng tìm lại hương vị đó bằng nhiều cách: thêm mỡ, thêm hành, thậm chí đem rán cả cá nục lên cũng không sao tìm được dư vị cũ. Rồi thì “món” nước kho cá thu ăn với cơm nguội: Cá thu, thậm chí chỉ là đầu cá thu thôi, đem kho với nước mắm ngon cho đến khi sền sệt nước kho lại. Không cần cá, chỉ cần thứ nước kho ấy rưới vào cơm. Cơm nóng đã ngon mà cơm nguội càng ngon: vị bùi bùi man mát của cơm nguội quyện với vị beo béo, ngòn ngọt thơm thơm của nước kho cá thu thành một hương vị tuyệt vời, đã ăn là không thể quên
Khi tôi kể những điều này cho bạn bè nghe, họ đều bảo: “Đó là tại ngày xưa khổ quá, ăn cái gì có vẻ hơi ngon một chút là đã thấy ngon quá là ngon rồi. Thử đem những món đó đặt vào ngày nay xem, mấy người đã muốn ăn chứ đừng nói coi nó là một món ngon. Ngẫm nghĩ thì thấy họ nói cũng đúng, khổ quá thì cái gì mà chả ngon. Nhưng ngẫm đi rồi ngẫm lại thì lại không còn dám chắc điều ấy có đúng nữa hay không. Nhưng nếu là không phải thì vì cái gì? Hay tại bây giờ không còn hạt gạo “lúa lốc” (nước kho cá thu mà ăn với cơm nguội gạo lúa lốc thì càng tuyệt cú mèo). Thứ gạo lúa cạn màu hồng hồng, nấu cơm lên nhìn thì hơi khô nhưng khi ăn vào lại dẻo quẹo nơi chân răng và phảng phất một mùi thơm mà chỉ có nó mới có. Thứ gạo đó “tuyệt tích giang hồ” có lẽ đã từ lâu lắm rồi, vì tuy ngon nhưng giống lúa làm ra thứ gạo ấy lại có năng suất rất thấp… Hay tại bởi gạo, cá bây giờ không ngon như gạo cá ngày xưa? Không đúng, cá thì vẫn là cá ở biển đó thôi, còn gạo thì các loại gạo cao cấp ngày nay chắc gì đã thua nhửng loại gạo ngày trước. Vậy thì vì gì nhỉ? Không hiểu nổi nữa, thôi thì cứ đành để chiêm nghiệm thêm về sau vậy. Có điều chắc chắn rằng cái ngon của những món ăn ngày ấy không liên quan gì đến lĩnh vực tinh thần cả, kiểu như trong văn chương người ta hay nói đến trong những trường hợp tương tự: ngon là do không khí ấm áp hòa thuận của gia đình hay do tình cảm của mẹ gửi vào các món ăn, làm cho nó ngon thêm. Không phải thế, cái ngon ở đây rất thực thể. Ngon từ vị ngọt lừ của gạo, vị mằn mặn đậm đà của nước mắm ngon, ngon từ vị cay cay của ớt, hương thơm của những cọng hành lá, vị bùi béo của cá nục, cá thu…
Mà nếu nói cái ngon của những món ăn ngày trước là do sự thiếu thốn khốn khó của cuộc sống gây ra hay do sự ấm áp của gia đình, tình thương của mẹ đem lại thì sao có một món ngon mà tận bây giớ tôi vẫn thấy ngon, mỗi khi làm cho gia đình bạn bề thưởng thức. Món ăn này tôi không thấy ở đâu có cả ngoài xứ Nghệ quê tôi: món xáo gà.
Ngày ấy những đứa trẻ con gia đình công chức như tôi thường nhìn những đứa con các nhà buôn bán trong xóm ăn quà vặt hàng ngày mà ao ước thèm muốn. Tuy cha mẹ chúng chỉ là người bán nước chè xanh, bán kẹo, bán tàu pha hay rượu nếp nhưng chúng thường được ăn vặt và có tiền để ăn vặt hàng ngày, tuy nói cho cùng cũng chẳng nhiều nhặn gì. Ngay buổi sáng chúng cũng đã có thể được ăn ngon hơn chúng tôi nhiều: món cháo lươn hay món bánh mướt dò với chúng có lẽ là không lạ tuy không phải là luôn luôn. Còn với chúng tôi, những món ăn “cao cấp” ấy thì chỉ biết đứng nhìn mà thèm rỏ dãi, với ánh mắt đầy ganh tỵ. Tôi không nhớ mười năm ở Vinh, số lần tôi được ăn cháo lươn có đếm hết ngón trên hai bàn tay không. Sáng mai, nếu nhà không còn cơm nguội để rang và cũng không kịp mua đồ ăn sáng thì mẹ cho đúng 5 xu, ăn bắp nếp hay xôi bắp hay xôi thì tuỳ, ăn cái này thì đừng cái khác. Bọn nó thì khác, đến lớp mà trong túi rủng rỉnh 5 xu, 1 hào để mua kẹo bao hay khoai đường đỗ vào giờ ra chơi là chuyện bình thường. Cũng đúng thôi, những người buôn bán nhỏ (lúc đó không ai được buôn bán lớn, tất nhiên) có thu nhập vô ra hàng ngày nên cho con chút tiền bỏ túi, hay cho chúng ăn sáng với những món ăn thích khẩu là chuyện dễ dàng.
Còn với những gia đình mang tiếng là công chức nhà nước (thậm chí được coi là công chức bậc cao của tỉnh) như gia đình tôi thì lương ba cọc ba đồng, phải tính toán lắm mới đủ sống thì làm sao có tiền cho con “phung phí” vào những thứ không phải là nhu cầu thiết yếu của cuộc sông nên trong túi chúng tôi không mấy khi có nổi năm xu, một hào. Thử tính xem, lương cha tôi cộng với phụ cấp con (từ đứa thứ ba trở đi mỗi đứa được 5 đồng) mới được 100 đồng, mẹ tôi làm lao động phổ thông chưa tới 40 đồng một tháng. Thì việc nuôi sống một gia đình 6 người với đủ mọi thứ quan hệ xã hội, phải tính toán đến thế nào, không nói cũng rõ. Vì thế những ngày vui nhất của chúng tôi (và những gia đình kiểu chúng tôi) là những ngày chủ nhật, vì ngày chủ nhật có “bữa ăn tươi”.Để bù đắp thêm chút ít năng lượng cho những bữa ăn kham khổ thường ngày chỉ có rau muống luộc hay canh hến, quả cà pháo, miếng đậu phụ, hoặc mấy con cá kho… những gia đình công chức thường tổ chức một bũa ăn tươi vào chủ nhật (là ngày rảnh rỗi nhất trong tuần). Nói là bữa ăn tươi nhưng thực ra cũng có gì nhiều đâu: Có khi chỉ là vài lạng thịt lợn đem rán lên, khi gặp mùa thì mấy con lươn con ếch om với cà “dái dê” hay cà dừa (cà bát), có khi là một miếng xương bò hầm lên làm phở. Thi thoảng lắm, có khi phải đến mấy tháng mới có một lần dám làm thịt con gà vào bữa ăn tươi. (Mà những gia đình có khả năng cũng không dám thịt gà luôn, vì sợ sẽ phải nghe những lời xì xào của hàng xóm: “ Nhà đó làm gì mà mấy tuần nay thấy làm thịt gà luôn?”… những lời xì xào đó đôi khi cũng đủ làm phiền người ta rồi, cái thời buổi nó thế). Thường mỗi khi làm gà vào bữa ăn tươi như thế mẹ tôi hay nấu xáo gà: Gà (quý nữa là gà trống thiến, ngày xưa chẳng có gà công nghiệp hay gà tam hoàng gì gì đâu chỉ rặt một thứ gà ta hơi nhỏ con nhưng thịt săn chắc mà thơm lắm) chặt miếng vừa ăn đem ướp kỹ với ít hành tăm đập dập (sau này vào Nam, không có hành tăm tôi phải thay bằng hành củ thái mỏng cũng giảm mất một phần cái ngon), mấy cái là chanh thái sợi, một ít mắm tôm xong để chừng nửa giờ cho ngấm mắm muối rồi đem “tao” (xào”) kỹ mới đổ nước vào nấu, cho đến khi thịt gà mềm vừa ăn, thế là xong. Xáo gà ăn với bánh mướt, món này mà ăn nóng với bánh mướt thì thật là tuyệt: vị ngọt thơm của nước xáo, vị mềm dẻo trơn lừ của bánh mướt, vị bùi béo của thịt gà, tất cả quyện vào nhau tạo nên một thứ hương vị tổng hợp tuyệt vời. Nhiều năm về sau tôi hầu như quên mất món này (không hiểu có phải vì tôi không còn được ăn ở đâu cả). Mãi cho đến những năm bảy mươi trở lại Vinh tôi mới được thưởng thức lại nó và học được cách nấu (ngày xưa còn bé tý, chỉ biết khen ngon khi mẹ nấu cho ăn). Đem nấu cho bạn bè dùng thử, ai cũng khen ngon và không phải chỉ một người muốn tôi truyền lại cho họ “bí quyết” nấu xáo gà đâu. Kể cũng lạ, tại sao một món ngon như xáo gà lại không được phổ biến rộng rãi ra các địa phương khác nhỉ? Tôi suy nghĩ mãi: phải chăng vì làm món này vô cùng đơn giản, đơn giản từ nguyên liệu đến cách thức chế biến. mà người đời thì lại mang tâm lý “ngon” nhưng còn phải “sang” (giống như các đại gia ngày nay ăn thịt thú rừng thì “quý” nhưng còn phải “hiếm” nữa thì mới đạt tiêu chuẩn của họ). Còn người thành Vinh nói riêng và người xứ Nghệ chúng tôi nói chung thì luôn trọng thực chất, món gì ngon thì cứ “đả” đã, sang hay không sang tính sau. Tất nhiên nếu được cả ngon và sang nữa thì còn gì bằng, nhưng nếu chỉ là cái sang màu mè thì dân xứ Nghệ không ham.

                                       THÚ VUI HỌC TRÒ

Người thị dân có một thói quen lâu đời đã gần như trở thành thuộc tính (nghĩa là bất kể ở nơi đâu, không kể là đô thị nhỏ hay lớn, miền Bắc, miền Trung hay miền Nam đều có): ăn vặt. Cho dẫu ngày xưa là trái bắp nướng, mấy củ lạc rang, vài hạt dẻ hay bát chè vừng, chè đậu đen… và ngày nay là các thứ trái cây ngon nội có, mà ngoại nhập cũng có hay các thứ kẹo bánh cao cấp mà ngày xưa mơ cũng chưa từng thấy. Thì tất cả những thứ ấy cũng chỉ để phục vụ nhu cầu ăn vặt của người thị dân mà thôi (có thể ngày nay đã mở rộng ra ngoài phạm vi thị dân rồi cũng nên). Cũng đúng thôi, thoát khỏi lối sống tự cấp tự túc của người nông dân, sống trong đời sống của kinh tế hàng hoá, hàng hoá luôn bày sẵn trước mắt, muốn gì có nấy, đồng tiền thường xuyên qua lại trên tay, thời gian rỗi lại nhiều nên nảy sinh ra nhu cầu mua sắm, ăn uống cũng là tất nhiên. Thị dân là vậy thì thị dân thành Vinh cũng không là ngoại lệ. Tuy không có những đồ ăn cao cấp như bây giờ nhưng mùa nào thức ấy, giờ nào thứ ấy người Vinh ngày trước cũng ăn vặt như người Vinh bây giờ và có lẽ cả sau này nữa. Trưa mùa hè nóng nực, khi gió lào thổi ào thì có bát tàu phà sóng sánh nước gừng hay bát chè đỗ đen mà chỉ nhìn thôi cũng đã đủ mát lòng. Tối, cả nhà ngồi hóng mát ngoài hiên tự nhiên thấy buồn mồm ư? Thì có đứa trẻ vừa cắp mủng lạc rang vừa đi qua đó, gọi nó trở lại, mua một hai hào là đủ cho cả nhà vừa vui tay vừa vui miệng. Tối mùa đông rét mướt, người mẹ nói với đứa con gái đến đầu góc phố mua mấy trái bắp nương về cả nhà cùng ăn. Đứa con gái kêu: “Rét quá!”, người mẹ liền nói: “Thôi, để lát nữa hạt dẻ rang đi qua mua cũng được..”. Nhưng rồi vì một lý do gì đó mà đứa bé bán hạt dẻ rang hôm nay không đi qua như thường lệ. Thì đây, người bán “chi ma phồ” (chè vừng đen) đã tới. Gọi vào, mua mỗi người một bát, vừa ăn vừa nhìn lửa reo tý tách bắn cả hoa lửa ra ngoài mà thêm ấm lòng… Rồi một khúc mía, một miếng bánh kê không tiện ăn ở chợ ư? Thì bạn cứ mang về nhà đã, rồi sẽ từ từ nhấm nháp thưởng thức sau vì nhà mình là nơi tự do nhất của mỗi người mà…
Người lớn là thế còn bọn con nít tụi tôi thì càng khỏi nói. Con trai thì quế, kẹo bao, lạc rang, ngô rang… con gái thì chua me, ổi, lót, sơn trà…. Nhưng có lẽ cái thú nhất của bọn tôi ngày ấy khi đến lớp là… ăn vụng trong lớp, kể cả con trai lẫn con gái. Bọn tôi hồi ấy khi đến lớp không đứa nọ thì đứa kia cũng có năm xu. một hào trong túi. Chúng tôi mua quà vặt: bắp rang, lạc rang, chua me, quế, lót, dâu da… mùa nào thức ấy, rồi chia nhau ăn vụng và lấy làm thích thú lắm. Ăn vụng chưa đủ, chúng tôi còn tìm đủ cách để “nhem thèm” những đứa không có đồ ăn hôm ấy (thực ra cũng chỉ là chuyện “tao hôm rày mày hôm khác” thôi, nhưng vẫn cứ thích). Có lần mấy đứa con trai tụi tôi đưa chua me vào lớp nhấm nhót, lại còn thỉnh thoảng hít hà, nhăn mặt kêu lên nho nhỏ, nhưng đủ để mấy đứa con gái bàn trên nghe thấy: “Ôi, ngon quá… mà… chua quá…”. Mấy đứa con gái thèm nhỏ dãi, tức lắm mà không làm sao được. Được một lúc lâu chừng như không chịu được nữa, con Hà đứng bật dậy,vừa quay lại nhìn chúng tôi vừa nói (lúc này tôi đưa cả quả chua me ăn dở lên hoa hoa trước mặt nó để trêu tức):
- Thưa cô… - Tự nhiên nó ngừng lại (hình như nó sặc nước miếng)
Đang viết, cô Bàng quay lại:
- Có chuyện gì đấy Hà?
- Thưa cô các bạn ở bàn sau…
Không hiểu sao tự nó ngập ngừng (nhưng tụi tôi lúc này thì mặt tái đi, có lẽ vì tức hơn là vì sợ).
- Các bạn ở bàn sau làm sao nói rõ ra đi?
- Các bạn ở bàn sau ăn chua me trong lớp ạ!...
Tất nhiên cả lớp cười ồ. Nhưng cô giáo thì phạt chúng tôi lên đứng ở góc bảng quay mặt lại cho cả lớp nhìn. Lên đứng ở góc bảng rồi nhưng trong bọn còn có đứa vẫn nhân lúc cô giáo không để ý, làm động tác ăn chua me để trêu tức mấy đứa con gái. Lại có tiếng thưa:
- Thưa cô…
- Lại cái gì nữa đây…? – Giọng cô Bàng hơi bực.
- Không… không… có gì ạ! – Giọng con Hà trở nên lắp bắp vì cái đứa làm động tác trêu chọc nó đã trở nên hiền lành nhất trên đời từ bao giờ...
Giờ ra chơi, tôi chạy vội đến túm tóc con Hà, giật một cái rõ đau khiến nó ứa nước mắt. Nó hét:
- Mi làm chi rứa?
- Ai kêu mi mách lẻo? – Tôi nói
Con Hà chưa kịp nói gì thì con Nga đã hất mặt lên, giọng tỉnh như không:
- Ai kêu bọn mi không cho bọn choa ăn với!
Tuổi thiếu niên thật là hoa mộng mà cũng thật là khờ dại biết chừng nào!

                         NGON ĐẾN TẬN BÂY GIỜ

Có hai món ngon mà hồi thơ bé ở Vinh tôi ít khi được ăn nhưng lại là hai món mà đã ăn một lần là không thể quên. Có thể nói đó là hai món ăn ngon nổi tiếng nhất của thành Vinh, nổi tiếng cho đến tận bây giờ. Sự nổi tiếng của nó không còn nằm trong phạm vi thành Vinh hay xứ Nghệ nữa mà đã bay xa hơn nhiều. Ngày trước trên những chuyến xe tàu vào ra, tôi vẫn thường nghe người ta nói với nhau: “Về Vinh phải ăn bánh mướt dò mới được…” và ở Hà Nội bây giờ nhan nhản các bảng hiệu: “Cháo lươn Vinh”…

Ngày xưa Vinh có hai loại bánh mướt. Một loại làm bằng các thứ gạo thường (gạo “kho”, gạo “sổ” cũng được, miễn là nó nở để được nhiều bánh) được ngâm, xay rồi tráng thành bánh trên một loại khuôn tương đối lớn. Tráng xong người ta gấp chụm nửa trên chiếc bánh lại với nhau rồi cuộn lại tạo hình chiếc bánh như cái “đòn xóc” (bánh dài tròn như cái cán liềm, giữa to hai đầu bé và vát nhọn). Bánh tráng xong người ta xếp thành từng chục, ở trên có quét một lớp mỡ nước phi với hành tươi xắt nhỏ tạo nên sự mượt mà cho những chiếc bánh trông ngon đáo để. Nhưng nói thật, thứ bánh này không mấy ngon, nó là thứ bánh phổ thông cho dân lao động dùng. Gạo không được tốt, xay không thật kỹ, tráng dày to, thứ bánh này chỉ hay ở chỗ to và rẻ. Tôi nhớ hồi ấy đâu hai hào một chục thì phải, nhưng một đứa trẻ chỉ ăn một hai cái đã muốn no, người lao động ăn khoẻ cũng chỉ hết chừng chục cái là cùng.

Muốn ăn theo kiểu thưởng thức thì phải ăn thứ bánh mướt có nguyên liệu tốt hơn và “công nghệ chế biến” cũng phức tạp hơn nhiều. Gạo đem làm bánh phải là thứ gạo thật tốt (tuy không phải là gạo tám thơm như bánh cuốn Thanh Trì), ngâm kỹ, xay ba lần (loại bánh cho dân lao động chỉ xay hai lần) rối đem ủ lại độ vài tiếng đồng hồ để bột nở và tạo độ dai cho bánh, xong mới đưa tráng. Khuôn tráng loại bánh này tương đối nhỏ (khi tráng xong đường kính chiếc bánh chỉ khoảng mười lăm mười sáu phân), cái môi múc bột cũng nhỏ. Múc một môi bột đổ lên khuôn, người tráng nhanh tay dùng đáy chiếc môi làm bằng một miếng gáo dừa xoay những vòng tròn hoàn mỹ để dàn thật đều, thật mỏng lượng bột ít ỏi đó ra trên mặt khuôn, rồi đậy vung lại. (Ăn thua nhau là ở chỗ này đây, người tráng giỏi có thể tráng ra thứ bánh mỏng tang, mỏng đến nỗi sau này thằng bạn tôi có dịp nói khoác: “Thứ bánh này trải ra, đưa lên trời mà nhìn, có thể thấy được cả mây trời sau tấm bánh…”. Tuy là nói khoác nghe chơi nhưng nó cũng đủ cho ta hình dung được mức độ mịn và mỏng của chiếc bánh đến chừng nào). Khi bánh chín, mở vung ra phải thấy bánh phồng đều trên mặt khuôn mới là đạt, nếu còn chỗ phồng chỗ không là do tráng bánh không thật đều. Sau khi được đưa ra khỏi khuôn và trải đều trên tấm lá chuối, bánh được người ta gấp lại theo một chiều cho đến khi chiều rộng của nó chỉ còn chừng hơn hai ngón tay.

Thứ bánh này chỉ chấm với nước mắm ngon Cửa Hội pha chanh ớt cũng đã ngon lắm rồi mà ăn với xáo gà, xáo bò hay cháo lươn thì càng ngon hơn. Nhung theo tôi và những người Vinh xưa, để cảm nhận được hết cái ngon của thứ bánh mướt này thì phải ăn với dò. Thứ dò nạc mà người ta làm ngay tại lò mổ: xẻ thịt con lợn ra cắt ngay lấy miếng nạc mông, không lẫn tý mỡ nào, khi miếng thịt còn nóng rần rật. Thứ thịt này được bỏ ngay vào cối đá và một người thanh niên hai tay cầm hai chiếc chày giã liên tục, không ngừng không nghỉ cho đến khi thịt nhuyễn nhừ mới đem “bó” dò. (Chứ không phải như bây giờ người ta có thể đem bó dò với bất cứ thứ thịt nào miễn là đã được xay nhuyễn). Cây dò ở Vinh hồi ấy chỉ to khoảng bằng ngón chân cái, dài hơn mươi phân, thế mà khi mở hết mấy lần lá chuối, mùi thơm từ nó tỏa ra đến cách mấy cái bàn cũng còn ngửi thấy. Cầm cây dò trên tay ta có cảm giác vừa chắc vừa mịn lại vừa xốp (lạ thế), “lắc nhẹ một đầu cây dò thì đầu kia rung lên bần bật”, (ấy cũng là theo lời nói khoác của thằng bạn tôi). Một thằng bạn khác thì nói: “Một cây dò đúng chuẩn khi cắt ra, lát cắt phải đạt ba yêu cầu: hồng, mịn nhưng lại phải rỗ lỗ chỗ…”. Bánh mướt mà ăn với thứ dò này thì thật tuyệt, không gì hợp bằng. Bạn thử tưởng tượng mà coi: quấn một lát dò vào một “lá” bánh, chấm vào bát nước mắm ngon Cửa Hội pha chanh ớt rồi đưa lên miệng. Vị ngọt thơm của bánh hợp với vị thơm ngọt của dò, cái dẻo và hơi dai của bánh hợp với cái dẻo mềm và hơi sần sật dòn dòn lại bùi bùi beo béo của dò cộng với cái cay cay chua chua mằn mặn của nước mắm chanh ớt, thì cái cảm giác hỗn hợp ấy mới tuyệt vời làm sao. Xứng đáng là một sự hưởng thụ.

Bây giờ ở Vinh người ta đã ít ăn bánh mướt dò. Phải chăng là do sự nhàm chán bởi quá nhiều loại thức ăn ngon khác hay bởi tại bây giờ đất chật người đông, tất cả đều theo khuynh hướng công nghiệp không còn giữ được vị ngon của “nếp nhà” ngày xưa nữa. Riêng với tôi thì bánh mướt dò là một món ăn ngon đến lạ lùng, cái ngon đó theo tôi mãi đến bây giờ.

So với bánh mướt dò thì món cháo lươn lại ngon theo một kiểu khác mà cách chế biến, ăn uống xem ra còn phức tạp hơn nhiều. Muốn có một nồi cháo lươn ngon khó lắm. Lươn nấu cháo cần lớn vừa phải, không to quá mà cũng không nhỏ quá, nhỏ quá không có thịt, to quá thịt cứng mà cũng không được thơm. Thích hợp nhất là loại lươn bằng ngón tay cái hoặc nhỉnh hơn chút ít, nồi cháo cho cả nhà chỉ cần hai ba con là đủ. Lươn đem về phải nhốt lại trong vại sành vài hôm cho tiêu hoá hết những gì còn lại trong ruột và cả những gì bám bẩn ở bên ngoài rồi mới làm. Trước hết phải dùng tro bếp tuốt cho sạch nhớt (nếu không có tro bếp hoặc những nơi nhà hàng làm nhiều lươn một lúc thì có thể dùng dấm thay cho tro bếp cũng được). Lươn tuốt xong đem rửa thật kỹ vì từ đây không được để nước lạnh dính vào nữa. Sau đó dùng một con dao bằng cật tre khứa một nhát phía bụng lươn ngay dưới hai mang, lách mũi dao tre vào vết cắt rọc một đường thẳng dưới bụng lươn để lấy ruột ra. Theo lời mẹ tôi nóí thì sở dĩ không để con lươn đã mổ dính vào nước lạnh và phải dùng dao tre để mổ lươn là để sau này không có vị tanh. Chẳng biết có đúng không hay chỉ là một sự cầu kỳ do những người sành ăn bày ra. Một số người sành ăn khác lại cho rằng làm lươn theo kiểu đó sẽ lãng phí mất phần máu lươn chảy ra khi mổ, theo những người này lươn tuốt nhớt rửa sạch là có thể đem luộc ngay để khi tuốt thịt có thể lấy được hai giải huyết đông lại bên trong và cái dạ dày là những thứ vừa ngon vừa bổ. Nếu làm lươn theo kiểu mổ bụng thì khi làm ruột xong sẽ đem lươn đi luộc. Luộc lươn là một kỹ thuật khó, lươn luộc phải vừa chín tới. Nếu luộc chưa tới, việc tuốt lấy thịt sẽ rất khó đã đành mà quá lửa đi một chút thì phần thịt trên thân lươn sẽ bị gãy, không thể tuốt thành những giải dài để sau này khi bỏ vào cháo mới nhìn ta đã thấy ngon lành, mà thịt lươn cũng bở, nhão không còn dai như thứ thịt lươn luộc vừa chín tới, nhưng thế nào là lươn vừa chín tới, phải chú ý trong quá trình luộc lươn nếu thấy phần thịt trên thân lươn vừa nứt ra là đúng lúc đấy, phải gắp ra ngay, nếu để thêm chút nữa là trễ. Lươn tuốt xong, xương để riêng để chốc nữa giã nhỏ vắt lấy nước cho vào cháo để nồi cháo thêm ngọt. Phần thịt lươn đem ướp với hành, nước mắm ngon và nghệ. Ngày xưa không có dầu điều nên người ta dùng nghệ giã nhuyễn, vắt lọc lấy nước để uớp với thịt lươn. Khi được tao với mỡ nước, nghệ sẽ quyện với mỡ thành một thứ dung dịch dầu có màu vàng óng ả , trong rất đẹp mắt. Phần lươn như vậy là xong. (Thực ra có người cầu kỳ còn cho thêm một ít thịt ba rọi vào tao chung với lươn “để cho cháo thêm vị bùi và béo”, nhưng cũng có người cho rằng không cần thiết vì “riêng vị bùi và béo của lươn cũng đủ rồi”).

Gạo đem nấu cháo phải là thứ gạo tốt, được vo kỹ, có pha thêm ít nếp (thường là bốn gạo một nếp) để tạo độ sánh cho cháo sau này. Không biết có phải vì một lý do kỹ thuật nào đó hay đơn giản vì ngày trước hiếm xoong chảo nhôm nên các bà hàng cháo lươn thường nấu cháo trong những nồi đất to. Cháo nấu xong rồi nhưng vẫn để trên bếp thật nhỏ lửa để nồi cháo luôn được sôi lăn tăn. Anh gọi một bát năm hào ư?... Chị ăn ít chỉ gọi một bát ba hào thôi?... Có đây, bà hàng sẽ múc vào bát một lượng cháo tương ứng với giá tiền anh chị kêu, sau đó quay ra chảo lươn xào cũng đang sôi lăn tăn để múc vào bát cháo một lượng lươn cũng tương ứng thế. Đây mời anh chị. Thêm một chút tiêu một chút rau mùi tàu (lạ thế, cháo lươn phải có rau mùi tàu mới nổi vị), một miếng chanh, vài ba lát ớt, thế là ta đã có cả một trời hương sắc từ bát cháo lươn..,

Chỉ một mình bà hàng, không có người phục vụ. Bàn ghế cũng không đáng gọi là bàn ghế nữa, có khi chỉ là một cái “mươn” tre và vài ba cái “đòn” bằng mấy miếng gỗ tạp ghép lại. Vậy mà hàng nào nấu ngon khách vẫn đông nườm nượp như thường.

Có điều tôi thấy người ta ăn uống bây giờ thật khác, có vẻ xô bồ và ngạo mạn. Ngạo mạn? Vâng!. Tôi đã thấy có người vào quán cháo lươn, gọi một bát và nói thêm một cách kiêu hãnh: “Cho nhiều lươn vào, tiền nong không thành vấn đề…”. Thành ra bát cháo của anh ta lươn nhiều hơn cháo. Khi ăn anh ta gắp một lúc mấy miếng lươn bỏ vào mồm, ăn như chưa bao giờ được ăn hoặc không bao giờ được ăn nữa. Tôi nghĩ, ăn như thế thật phí phạm của trời vì làm sao cảm nhận hết được cái ngon của bát cháo lươn, dù ngon đến mấy. Ngày xưa khác, người ta ăn cháo lươn có lớp lang lắm. Phần đầu bát cháo người ta ăn thật từ từ thong thả: thong thả rắc một tý tiêu, thong thả vắt một lát chanh, thong thả lấy một tý ớt, thong thả lấy một chút mùi tàu… Thong thả húp một thìa cháo, thong thả gắp một miếng thịt lươn lên cắn một miếng vừa phải, nhai chầm chậm nhẩn nha như mải trầm tư suy nghĩ điều gì mà thật ra là đang tập trung thưởng thức cho hết hương vị của món cháo đang ăn. Nào là bùi bùi của gạo, vị ngọt của nước xương lươn, vị beo béo ngầy ngậy của miếng thịt lươn xào, trộn lẫn vào đó là vị cay cay của chút ớt chút tiêu, mùi thơm của mấy lá mùi tàu… Phần nửa sau của bát cháo có thể ăn nhanh hơn vì sợ cháo nguội. Nhanh nhưng vẫn mang vẻ từ tốn như khi người ta làm một việc gì đó cần nhanh nhưng vẫn nghiêm cẩn trân trọng với công việc. Ăn như thế mới là ăn chứ…

… Một buổi sáng của một ngày xưa đã xa lắm, khi thằng bé bây giờ là tôi lần đầu tiên được cha mẹ đưa đến tận trước cửa chợ Vinh trên đường Hồng Sơn để ăn sáng, cũng vào một sáng cuối thu có mây mù lãng đãng, có gió thu se sắt như bây giờ. Thức ăn sáng hôm ấy là một bát cháo lươn ở quán bà Được ngon nổi tiếng ở thành Vinh thưở ấy. Lần đầu tiên được đi ăn cháo lươn nên đứa bé thật háo hức. Trong khi chờ cháo nó hết nhìn chảo lươn xào đang sôi lăn tăn lại nhìn nồi cháo đang bốc hơi nghi ngút rồi quay ra nhìn những đứa trẻ cùng lứa với nó đang xì xụp húp cháo, thỉnh thoảng miệng lại hỏi rối rít: “Cháo được chưa mẹ?… cháo được chưa mẹ?...”. Cái bàn nó ngồi đặt ngay cạnh bà Được nên bà nhìn thấy hết, nghe thấy hết. Bà nhanh tay múc cháo vào bát, lấy lươn rồi vừa mỉm cười hiền hậu vừa đưa cho nó bát cháo: “Đây rồi nì, mi…”. Bố mẹ thằng bé cũng mỉm cười nhìn ra xung quanh như mong mọi người thông cảm cho sự khờ dại của con mình… Người cha ăn xong, vừa xỉa răng vừa hỏi con: “Răng con?...”, đúa bé đang húp vội những thìa cháo cuối cùng, miệng vừa xuýt xoa, vừa lúng búng: “Ngon quá… ngon quá…”. Người mẹ đưa tay nới lỏng chiếc khăn mỏ quạ trên đầu rồi lấy một góc chiếc khăn chấm chấm những giọt mồ hôi đang rịn ra lấm tấm trên hai má ửng hồng vì nóng (dù trời đang tiết cuối thu se lạnh), cái nóng của cháo và của chút ớt chút tiêu…, miệng lẩm nhẩm như tự nói với mình: “Ngon thật… đúng là miếng ngon nhớ đời…”…

Ôi! Miếng ngon thành Vinh.

                                                             IV

                                                      HỒN CHỢ

MUÔN NẺO ĐƯỜNG VỀ...

Hồi còn trai trẻ, còn lăn lóc với đời, đến bất cứ vùng nào dù là nông thôn hay thành thị, dù thong thả hay vội vàng tôi cũng tranh thủ ghé đảo qua chợ của vùng ấy. Không phải vì nhu cầu mua bán đâu, mua bán gì ở những cái chợ quê trong một vài làng nhỏ hẻo lánh hay một vùng sơn cước có ở nhiều nơi trên đất nước này hồi bấy giờ, mà thật ra nhiều khi tôi cũng không có tiền để mua bán dù là mua bán những mặt hàng nhỏ nhoi ở những cái chợ như vậy. Nhưng tôi quan niệm cái chợ không chỉ phản ánh kinh tế của một vùng mà còn là bộ mặt văn hóa xã hội của vùng đó nữa. Ngày nay khi mà đời sống cộng đồng được nâng cao rất nhiều, lưu thông phân phối trở nên cực tốt thì nét đặc trưng riêng biệt của chợ quê trở nên nhạt nhòa đi, không còn đặc sắc nữa. Ngày xưa thì khác, nhìn vào phẩm vật hàng hóa bán ở một cái chợ người ta biết được đặc sản vùng đó là gì, kinh tế có phát triển hay không. Nhìn vào cách ăn mặc, nét mặt, giọng nói, dáng đi và cách ứng xử của những người đi chợ người ta có thể biết đời sống xã hội của một vùng phát triển đến mức độ nào, thậm chí biết được tập tính sinh hoạt của vùng ấy. Chợ là hồn của một vùng đất, một chợ có sản vật phong phú, người đi chợ quần áo tươm tất đàng hoàng, giọng nói dịu dàng hay khoáng đạt, nhất định kinh tế tế vùng ấy phong túc, con người vùng ấy cởi mở có đời sống văn hóa cao; hàng chợ nghèo nàn, người đi chợ quần áo, nét mặt xúi xó nhàu nát, nhất định đó là một vùng nghèo nàn không chỉ về kinh tế... Chợ càng lớn thì phạm vi ảnh hưởng và thông báo càng lớn. Chợ xã, chợ huyện thì chỉ ảnh hưởng tới xã, huyện có chợ và vài xã huyện lân cận. Chợ tỉnh biểu hiện ảnh hưởng và thông báo của nó lớn hơn nhiều, nó có phạm vi cả một tỉnh chứ chơi đâu. Tuy nhiên có một loại chợ nữa mà mức độ biểu hiện của nó vượt xa ra ngoài phạm vi nó đóng, có thể coi nó là một thứ chợ vùng, mặc dù về hình thức nó cũng chỉ là chợ tỉnh. Chợ Cần Thơ ở Cần Thơ, chợ Đầm ở Nha Trang, chợ Đông Ba ở Huế, chợ Vinh ở Nghệ An, chợ Rồng ở Nam Định là các chợ như thế.

Các chợ ấy tôi đều đã lui tới nhiều lần nhưng có hai chợ để lại trong tôi nhiều dấu ấn hơn cả: Chợ Rồng thì vì quy mô và nét cổ kính của nó và chợ Vinh là chợ của tuổi thơ tôi. Thực ra có thể nói chỉ tính riêng các “chợ tỉnh” thôi thì suốt một dải từ Hà Nam, Nam Định vào đến Quảng Bình, Quảng Trị chỉ có chợ Rồng và chợ Vinh là lớn nhất. Nếu chợ Rồng là nơi giao thương buôn bán của các tỉnh phía nam đồng bằng Bắc bộ từ Ninh Bình trở ra thì chợ Vinh cho các tỉnh phía bắc miền Trung từ Thanh Hóa vào đến Quảng Bình. Có thể nói chợ Vinh không chỉ là hồn của thành Vinh mà còn là hồn của Nghệ An, nói rộng ra là của cả xứ Nghệ, nghĩa là bao gồm cả Hà Tĩnh nữa (mãi đến năm 1831, dưới triều vua Minh Mạng thì xứ Nghệ mới được tách thành hai tỉnh riêng là Nghệ An và Hà Tĩnh, trong khi đó chợ Vinh có từ trước đó nữa).

Theo trí nhớ của tôi thì chợ Vinh ngày xưa đã lớn lắm, hàng hóa thì phong phú vô cùng vì có nguồn từ bốn tỉnh đổ về, mùa nào thức ấy. Tháng chín, tháng mười cho đến tết những gánh hồng gáo vàng tươi, những gánh cam đỏ au của giống cam Xã Đoài ngon nổi tiếng cả nước từ Nghi Ân, Nghi Kim kìn kìn về chợ. Từ Hà Tĩnh những con thuyền chở nặng cam sành, hồng trứng từ Hương Sơn, Hương Khê xuôi dòng sông La vào sông Lam mà lên chợ Vinh. Từ Quảng Bình theo những chuyến xe ra là bưởi Phúc Trạch, nón Ba Đồn. Tháng sáu có dưa hấu chợ Đình theo các đường thủy bộ mà về chợ Vinh. (Những quả dưa hấu chợ Đình trong mắt tôi ngày ấy sao mà to và ngon thế. Mà to và ngon thật, quả nhỏ cũng năm bảy cân, quả to thì phải đến mười mấy cân, vỏ màu men ngọc xanh mướt. Mùa hè nóng nực, bổ một trái dưa, nhìn màu đỏ và nước dưa ứa ra theo đường cắt ta tưởng tượng nó có thể làm mát cả không gian quanh nó).

Không chỉ hàng mà các phương tiện chở hàng về chợ Vinh cũng vô cùng phong phú, phong phú như chính các mặt hàng về chợ vậy. Nếu bạn thấy những con đò dọc thong thả hay gấp gáp, chở đầy chè xanh, chuối, mít... cho đến những mảng bè gỗ, nứa, mây song... đang nặng nề trôi trên sông Lam về xuôi hay trên sông La đầy những con thuyền chở lá nón, móc bẹ, áo tơi, hồng bưởi... đôi khi bạn tự hỏi: “Những con thuyền, những mảng bè này về đâu ấy nhỉ?...”, họ đang về chợ Vinh đấy. Nếu bạn thấy những người đàn ông sơn cước thân hình tráng kiện nhưng nét mặt chất phác hiền lành vai mang “tay nải” hay những cô gái “thiểu số” mặt tươi như hoa, mặc váy thêu, đội khăn “piêu”, lưng địu những cái “dậu” chứa đầy dược thảo đang thoăn thoắt bước trên đường. Họ từ Quỳ Châu, Quế Phong, thậm chí từ Thạch Thành, Cẩm Thủy (Thanh Hóa) mang cây thuốc về chợ Vinh bán đấy. Rồi những xe ngựa, xe thồ chở củ nâu, măng tre, mộc nhĩ... từ Phủ Quỳ về, đậu, lạc, chè xanh, chuối,,, từ Hoàng Mai, Cầu Giát, Diễn Châu vào. Nhưng đông vui nhất có lẽ là những bà, những chị gánh gánh. gồng gồng mang những gạo nếp, đậu xanh, mật, lạc từ Hưng Nguyên, Nam Đàn xuống chợ, hay những gánh “thịt chó bánh mướt” từ Đức Thọ sang... Đúng là muôn nẻo đường về...

ƠI NGÀY PHIÊN VÀ…

Với chúng tôi, những ngày phiên chợ mới thật vui. Nhưng mỗi khi nhớ đến chợ Vinh tôi lại thường hay nhớ đến một nhân vật khá đặc sắc và nổi bật trong những ngày chợ thường (có lẽ là do những ngày phiên nhân vật này nhập nhòa đi trong cảnh nhộn nhịp): cô hàng xén.

Có lẽ một trong những nét đặc sắc của chợ quê Việt Nam ngày trước là cô hàng xén. Có thể nói bước vào bất cứ cái chợ nào trên đất nước này thời ấy ta cũng bắt gặp hình ảnh cô hàng xén quen thuộc. Không phải chỉ tới thời Hoàng Cầm mới có:

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

Mà cô hàng xén đã xuất hiện từ xa xưa lắm. Và cô hàng xén không chỉ có ở chợ đâu. Ngay cả trong những làng xã xa xôi hẻo lánh không có đến một cái chợ nho nhỏ thì cũng có ít nhất một cô hàng xén. Cũng đúng thôi, cái thời xưa ấy, cái thời mà nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu chủ yếu là tự cấp tự túc, các phương tiện lưu thông phân phối hầu như chưa có gì thì ai là người cung cấp những tập giấy đóng quyển, những thỏi mực cho các anh đồ, anh khóa viết văn luyện chữ. Và sau này là những quyển vở, những cái ngòi bút, những viên mực cho mấy cô cậu học trò, hay những cây kim sợi chỉ... những vật dụng thiết yếu cho những dân quê cả đời không ra khỏi lũy tre làng. Chỉ có cô hàng xén. Thực ra ngay từ cái thời xã hội chia thành “tứ dân”, đến thời “công nông liên minh” thì cô hàng xén không được người ta coi trọng vì cô là “đồ con buôn”. Không được coi trọng nhưng người ta vẫn phải vì nể cô vì người ta cần. Có thể nòi cô là một yếu tố không thể thiếu của đời sống làng xã Việt Nam thời ấy.

Không hiểu sao trong ký ức của tôi mọi cô hàng xén đều đẹp. Tôi đã đi qua nhiều vùng, đến nhiều chợ từ Thanh, Nghệ đến Hà Nội, Nam Định Hải Phòng...thì hình ảnh đọng lại trong tôi ngoài các đặc điểm của chợ quê vùng ấy là hình ảnh các cô hàng xén. Cao ráo, mảnh mai, trắng trẻo, cổ cao ba ngấn, các cô chít khăn nhung, đội nón lá đi guốc gỗ nhún nhẩy gánh hàng tới chợ. Các cô hàng xén chợ Vinh lại càng đẹp lắm, tuy ở những nơi đô hội như Vinh thì cái hay, cái đẹp của các cô đã phần nào nhạt nhòa đi nhiều so với những nơi chợ huyện, chợ làng, nhưng so ra các cô vẫn cứ hơn hẳn về nét thanh lịch đối với những người bạn buôn bán xung quanh như hàng gạo, hàng vải chứ chưa nói đến những ngưới bán thịt, bán rau... Giang sơn của các cô chỉ là một đôi bồ nhỏ hay đôi thúng với hai cái mẹt đậy kín bên trên, thay cho đôi gióng là những sợi thừng buộc ở bốn góc, chỉ có vậy thôi. Chỉ có vậy thôi mà ra đến chợ, các cô bày hàng ra thì đủ cả, nào vở, nào giấy, nào quản bút, ngòi bút, mực bình, mực viên cho đến lược gương, kim chỉ... Nụ cười ngọt ngào, ánh mắt đong đưa trước những cậu học trò lớn tuổi hay sự mềm mỏng, thái độ dịu dàng trước những người lớn tuổi của các cô làm cho các món hàng của các cô trở nên có giá hơn trong mắt những người đi chợ...

Ngày xưa dân thành phố thường dậy sớm (nhất là ở những thành phố tỉnh lẻ như Vinh), chứ không như bây giờ, dân các thành phố lớn thường là dân “ngủ ngày cày đêm”: Có thể chín mười giờ khuya còn gọi điện thoại rủ nhau đi nhậu, sáng mai dầu đã bảy tám giờ phần lớn phố xá vẫn im lìm. Cổng Chốt là nơi giao thương giữa nội ô thành phố với Hưng Đông và Nghi Kim về phía Bắc và Hưng Thông, Hưng Đạo về phía Tây (?). Nhà tôi ở cách Cổng Chốt chừng năm sáu trăm mét về phía nội ô nên cứ khoảng bốn giờ rưỡi năm giờ sáng là đã nghe tiếng nói chuyện râm ran của các bà các chị ngoài đường, xen vào đó là kẽo kẹt của những chiếc đòn gánh nặng trĩu. Người ở ngoài vào đi chợ Vinh đấy. Nào lúa nào ngô, nào lạc, nào mật…có đêm chợt thức giấc tôi còn nghe cả tiếng đuổi bò “huậy, huậy”. Tất cả tất tả cho kịp buổi chợ, nhất là những ngày phiên thì càng nôn nả. Với họ, ngày đã không còn sớm nữa...

Ngày phiên chợ Vinh nhộn nhịp từ sớm lắm. Từ bốn năm giờ sáng người ta đã bắt đầu chuyển hàng từ bến Cửa Tiền cách đó khoảng bốn năm trăm mét lên chợ. Vì các bạn hàng từ xa như Hương Sơn, Hương Khê, Ba Đồn, trên “mạn ngược” đã đến từ chiều hôm trước, muốn chọn được chỗ ngồi tốt phảỉ vào chợ từ sớm. Thôi thì bằng xe ngựa, xe ba gác, bằng gióng gánh, bằng vác vai... nào là dưa hấu, hồng, cam, bưởi, nón lá, củ nâu, móc bẹ, lá nón...(mùa nào thức ấy) kìn kìn vào chợ. Chừng sáu giờ thì chợ đã đông lắm vì những người đi bán nếp, mật, ngô, đỗ... từ Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Nam Đàn cũng đã về đến chợ. Trưa hơn chút nữa ta thấy những nàng “ngư nữ” vùng “Mơi Trang”(Nghi Lộc), Hưng Hòa, Hội Thông (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) đang gánh những gánh cá tươi xanh hiện đủ bảy sắc cầu vồng trong ánh nắng ban mai và sương sớm chạy như bay vào chợ.

Ngày ấy hoa trái kẹo bánh còn hiếm lắm, có khi cả dãy phố dài mới có một hai hàng bán bánh kẹo mà chủ yếu là những thứ tầm thường dân dã như kẹo bao, kẹo lạc, chỉ có trung thu, ngày tết mới may ra có vài thứ cao cấp như bánh dẻo, bánh nướng. Chứ phải đâu như bây giờ, bánh trái, hoa quả tràn ngập không chỉ ở chợ, ở quán xá mà hầu như khắp mọi nẻo đường, cả nông thôn lẫn thành thị. Vì bánh trái nói riêng và đồ ăn nói chung còn hiếm như thế nên lũ trẻ chúng tôi mỗi khi đến chợ thường bị dụ dỗ đến mê hoặc bởi những câu rao vừa ngọt ngào, quyến rũ vừa ngộ nghĩnh, thú vị:

Kẹo kéo Bắc kỳ đ...ây...

Kẹo kéo Bắc kỳ

Có tiền thì để làm gì mà không mua...

Rồi:

Kẹo kéo ăn béo đỏ da

Người già ăn trẻ lại

Con gái ăn chồng yêu

Con nít bổ xiêu

Ăn rồi đứng dậy...đây...

Hay:

Bi con con, bi dòn dòn, bi ngọt ngọt... đây...

Kẹo kéo thì rõ rồi vì nó đã có từ lâu trước đó và còn tồn tại lâu về sau (mãi tới cuối những năm chín mươi tôi vẫn thấy thứ kẹo này bán trước các cổng trường tiểu học ở Nam bộ dưới dạng ném phi tiêu trúng ăn kẹo). Còn “bi con con”?. Loại này chắc chỉ tồn tại ở Vinh trong những năm tháng nghèo khổ đó mà thôi: một cục bột mỳ bằng đầu ngón tay, rán phồng lên rồi lăn qua đường cát, ai mua thì gắp ra từng viên gói vào giấy. Thế thôi, thế thôi, nhưng với những đứa trẻ con đi chợ Vinh hồi trước thì đó là một trong những món quà hấp dẫn đáo để mà không phải đứa trẻ nào cũng có thể ăn được, vì nó đắt. Nếu tôi nhớ không nhầm thì đâu một hào một chục viên. Trẻ con đi chợ có trong người vài ba hào đã là nhiều lắm rồi, mà có biết bao thứ muốn mua. (Lúc đó gạo bán theo phiếu từ ba hào tám đến bốn hào mốt một cân (kg), gạo ngon ở chợ chỉ từ sáu hào hai đến bảy hào một cân. Có lần tôi nghe mẹ tôi nói: “đồ ăn dạo này đắt quá, một hào xôi vắt chặt lại chỉ còn bằng quả trứng vịt...”)... Nhiều đứa đứng tần ngần trước hàng một lúc rồi mới bước đi, đi nhưng vẫn còn ngoái mặt lại như tiếc nuối. Nên thật là có lý và cũng thật là tài khi có ai đó nhại lại câu rao thành: “Đi đi con, đi đi con, dòm (nhìn) chi mà dòm cho người ta nạt..” và bày cho tụi tôi hát lung tung mỗi khi đi chợ.

Người lớn đến chợ là để mua bán, còn bọn con nít nhiều đứa đến chợ là để được chạy nhảy lung tung, lấy đó làm vui và khi có điều kiện thì... ăn cắp vặt. Nói của đáng tội, ăn cắp thì có ăn cắp thật nhưng những thứ chúng tôi ăn cắp có đáng gì đâu: vài quả chua me, một miếng quế chi bằng ngón tay, mỏng dính. Nhưng cái cảm giác được mạo hiểm khi ăn cắp mới là sự kích thích hành động của những đứa trẻ chúng tôi ngày ấy.

Chua me và quế chi là những thứ mà chúng tôi thích ăn cắp nhất. Khi không có tiền thì chạy qua chạy lại trước hàng rồi nhân lúc người bán nhìn đi đâu đó liền thò tay bẻ luôn một miếng quế “bất hạnh” nằm chìa ra phía trên những thanh quế đã được sắp đặt tử tế, hay đưa chân đá những quả chua me nằm phía ngoài đống. Cũng có khi năm ba đứa giả vờ đuổi nhau xô nhau ngã vào đống chua me cho nó tung ra rồi đứa khác cướp lấy (điều này cũng ít xảy ra vì với chua me bọn con nít thường “kỹ tính”, chỉ những quả nào ương mới lấy, mà khi những quả bị vãi ra như thế rất khó chọn được quả vừa ý). Khi có năm xu, một hào thì năm bảy đứa bọn chúng xúm xít lại giả vờ mua rồi tuồn cho nhau. Quế thì lấy được là lấy, còn chua me thì khác, cả mấy đứa ngồi quanh đống, một hai đứa chồm tới chồm lui như để chọn, lặt lấy những quả vừa ý rồi lấy móng tay cào cào lớp phấn nâu bên ngoài cho tróc ra, nếu lớp vỏ bên trong có màu xanh là quả còn lâu mới chín, liền bỏ lại, chỉ lấy những quả mà lớp vỏ bên trong có màu nâu đen, vì đó là những quả đã ương (gần chín). Được mấy quả lại “nhanh tay nhanh mắt” chuyền cho những đứa khác ở vòng ngoài. Người bán hàng bị chúng làm rối lên không nhìn kịp, cũng có khi nhìn kịp, thấy rõ ràng quát lên thì chúng bỏ chạy tứ tán chỉ có một đứa đứng lại, tay chìa ra đồng năm xu với một vẻ hiền lành nhất. Nói của đáng tội, quế chi và chua me là hai thứ lúc đó khá rẻ mạt ở chợ Vinh, mất mấy miếng quế nhỏ, vài quả chua me, tuy có bực bội nhưng người bán cũng chỉ quát nạt, cùng lắm là chửi bới mấy câu chứ chẳng ai nỡ đánh đập bắt bớ làm gì.

Chắc có người sẽ nghĩ: “Hay ho gì chuyện ăn cắp vặt mà cũng đem khoe, nhất là khoe trên giấy trắng mực đen như vậy!...”. Nhưng khi viết tập ký này tôi chỉ muốn ghi lại một cách trung thực về thành phố của tôi và bè bạn thời thơ ấu của tôi dầu xấu, dầu đẹp. Mặt khác tôi nghĩ dám nhìn thẳng vào cả những thói hư tật xấu của mình cũng là một thế mạnh của mình, thế mạnh mà một con nguời biết tự trọng cần có.

Hơn mười năm sau trở lại Vinh, trong một lần lang thang ở chợ để tìm mua vài thứ cần thiết, tôi chợt bắt gặp lại tuổi thơ của mình ngày trước. Hai ba đứa trẻ khoảng mười một, mười hai tuổi đang đảo qua đảo lại nơi khu vực chợ nông thôn. Bỗng dưng chúng chạy táo tác, một đứa vừa ôm đít nhăn nhó xuýt xoa vừa chạy. Trước đống ổi sẻ khá lớn, một người đàn ông trạc ngoài ba mươi tuổi đang vừa vung vẩy cây roi tre khá dài vừa chửi : “Mả cha bay,,, cút hết đi nhá...”. Tôi vừa buồn cười vừa cảm thấy bất nhẫn (ngày xưa của chúng tôi, cùng lắm người ta chỉ chửi mắng, quát nạt chứ không bao giờ dùng roi tre để đánh trẻ đau đến thế). Đang định trách anh ta, tôi bỗng nghe ông cụ bán mấy cái lờ và rổ rá bên cạnh lên tiếng (đó là một ông lão trên dưới sáu mươi tuổi nhưng còn khỏe mạnh tráng kiện lắm): “Chú ơi! mần chi mà nặng tay rứa... trẻ con khờ dại thôi mà...”.

Người bán ổi có lẽ cũng đã có ý hối hận, giọng đã dịu đi nhiều nhưng cũng còn đôi chút bực bội:

- Nhưng mà tức lắm ông ạ, bọn hắn mà hỏi xin cháu một vài quả, cháu cho liền, đằng này lại giở trò ăn cắp. Mà có phải một lần mô, đó ông coi, khi thì đứa này chạy qua bất ngờ lặt một trái rồi chạy mất, khi thì một đứa có vẻ hiền lành đi ngang qua rồi đưa chân đá văng mấy trái nằm ở rìa đống cho văng ra để mấy đứa khác lặt, mà có phải một lần mô...

Ông lão cười đôn hậu:

- Chú nói rứa phải mà cũng chưa phải. Thứ nhất, chú không thể cho hết trẻ con trong chợ. Chú cho một đứa thì những đứa khác sẽ kéo đến liền, chú cho được một đứa, chú cho được vài đứa nhưng không thể cho hết bọn hắn. Thứ hai, ở tuổi bọn nớ những thứ hoa trái chúng ăn cắp được ngon hơn những thứ mà người ta cho nhiều lắm. Nên chú quát nạt bọn hắn thì cứ quát nạt nhưng đừng nặng tay đánh đập, tội nghiệp. Ngày xưa tui cũng rứa mà chú cũng rứa thôi...

Ôi! Những lời của ông lão tuy đơn sơ nhưng cũng đáng là của bậc trí giả trong dân dã vậy.

… CHỢ TẾT

Tôi đã đọc được ở đâu đó câu: “Đối với tuổi trẻ thì ngày ngắn năm dài, còn với tuổi già thì ngày dài năm ngắn”. Thật tài tình. Đối với tuổi tôi bây giờ ngày chưa đến nỗi quá dài nhưng năm thì đã ngắn lắm. Quay đi quay lại đã hết năm, tuổi tác cứ chồng chất mãi lên đầu mà hầu như đã làm được gì đâu. Chẳng bù cho thời trẻ, ngày ngắn lắm còn năm thì thật là dài, mà hình như ta càng trẻ thì điều này càng đúng. Bây giờ ngồi ngẫm lại tôi có cảm giác còn nhớ như in những ngày tuổi thơ ấy. Đã chơi được gì đâu, mới chạy vài vòng chong chóng, nhảy xuống sông vùng vẫy một hồi rồi một trận đá bóng dở dang chưa thỏa mãn bóng chiều đã ập xuống, hết ngày. Nhưng mà năm thì thật là thăm thẳm, chỉ trông hè trong tết thôi cũng đã đủ sốt cả ruột, thấy tháng ngày sao mà dài thế. Qua tết bước vào học kỳ hai là trông sao cho đến hè, qua hè bước vào năm học mới là nôn nao những ngày trông tết đến. Nhưng càng trông, càng sốt ruột, càng thấy lâu. Bắt đầu từ đầu tháng chạp, lũ chúng tôi chờ tết đếm từng ngày: còn hai mươi chín ngày... còn hai mươi lăm ngày... hai mươi ngày... mà ngày tháng thì cứ như ỳ ra, có chịu đi nhanh nhanh cho đâu. Có điều trông mãi rồi cũng đến tết. Tết để được ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn và nhất là để được... đi chợ tết.

Ngày nhỏ, năm nào cũng thế, cứ đến đầu tháng chạp là tôi lại “dạm” mẹ tôi: “Năm ni mẹ cho con đi chợ tết với nha mẹ”. Và năm nào bà cũng từ chối, khi thì “con còn nhỏ quá, đi chợ tết người ta giậm bễ bụng mất...”, khi thì “Mẹ lo mua bán con đi lạc thì mẹ mần răng kiếm...”, khi thì “Năm ni trời mưa rét lắm thôi để sang năm đi...”. Mãi đến năm mười một tuổi tôi mới được mẹ dẫn đi chợ tết lần đầu tiên. Tôi nhớ đó là phiên hăm ba tháng chạp, phiên đông vui nhất của chợ tết. Khỏi phải nói tôi náo nức đến chừng nào, nhất là đêm hăm hai áp ngày phiên. Hết lật tới lật lui, lòng lo sợ lỡ sáng mai ngủ quên mẹ đi mất, tôi lại giở ra đếm đi đếm lại, không biết lần thứ mấy, hơn hai đồng bạc có được do dành dụm từ lâu (thực ra dù tiền ngày ấy có giá thì một bánh pháo “tép” cũng đã mất một đồng rồi). Khuya khuya, không biết bà tôi lần từ đâu ra, đưa cho tôi tờ bạc một đồng nhàu nát “bà cho đồng bạc. mai đi chợ tết với mẹ”. Tôi càng mừng như là được cả một gia tài vậy... Nhưng trằn trọc mãi rồi tôi cũng thiếp đi lúc nào không hay...

Tôi nhớ ngày xưa ở chợ Vinh, không khí chuẩn bị tết đã bắt đầu từ những ngày đầu tháng chạp. Hàng hóa từ khắp nơi đổ về chợ bằng ô tô, bằng thuyền, bằng xe ngựa, xe thồ, gánh, rồi lại kìn kìn từ chợ ra đi cũng trên những phương tiện ấy. Xa thì Hà Nội, Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Bình, Hương Sơn, Hương khê... gần thì Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Diễn Châu... rồi Cửa Rào, Mường Xén, Phủ Quỳ... Nào gạo, nếp, đậu xanh, lạc, mật, cam quýt, cho đến lá dong, lạt giang (để buộc bánh...). Không khí chợ tết cứ tăng dần, tăng dần cho đến khoảng giữa tháng thì không còn phân biệt ngày thường và chợ phiên nữa. Tuy nói thế nhưng ngày đông vui nhất, nhộn nhịp nhất của chợ tết vẫn là ngày phiên hăm ba tháng chạp. Sau hăm ba thì chợ bớt sôi động dần vì đã cận ngày rồi, những chuyến hàng đi tỉnh xa không còn kịp nữa. Không khí của chợ cứ giảm dần cho đến phiên hăm tám thì trở lại cái không khí của những ngày phiên bình thường trong năm vì lúc này hàng về các huyện trong tỉnh hầu như cũng đã chuyển hết. Chợ chỉ còn phục vụ cho những người vì lý do nào đó phải chuẩn bị tết muộn mằn trong thành phố và những vùng lân cận...

Sáng sớm, tôi xúng xính trong bộ quần áo mới, chạy lon ton bên mẹ. (Ngày ấy trẻ con được may cho một bộ đồ mới là mừng tưởng có thể lớn lên được, chả thế mà đã có câu thành ngữ “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới” đó sao? Mà những năm ấy đồ mới chỉ có thể được may vào dịp tết thôi). Trời lây rây mưa bụi, những hạt mưa nhỏ xíu bám đầy đầu tóc tôi rồi rơi xuống cổ làm tăng thêm cái lạnh của buổi sáng cuối đông. Không hiểu sao mẹ tôi nói: “Năm nay trời thuận đây...”. (Về sau khi lớn lên tôi mới hiểu rằng năm nào tết mà trời mưa rét thì ít bệnh tật đau ốm, người ta gọi là thuận trời, năm nào tết mà không mưa, nắng ấm thì nhiều bệnh tật là trời nghịch). Ngoài đường những đứa trẻ lứa tuổi tôi theo mẹ đi chợ tết cũng đông lắm. Đứa nào cũng quần áo mới, mặt mày tươi tỉnh, rạng rỡ, hơn hớn như đi dự hội vây. Mà ngày ấy ở lứa tuổi ấy chúng tôi đã biết hội hè gì đâu chỉ được đi chợ tết là mừng lắm rồi. Càng gần tới chợ tiếng râm ran của những phong pháo tép, những tiếng “đùng đoàng” của những chiếc pháo “đùng” càng làm tôi (và những đứa trẻ như tôi đang đi chợ) thêm nôn nao rốt ruột, tôi luôn miệng giục mẹ:

- Mẹ, mau lên mẹ...

Mẹ tôi cười:

- Từ từ thôi, có ai khiêng mất chợ của con đi mà sợ...

- Nhưng người ta bán hết pháo thì răng?

Nghe thế các bà các chị đi chợ quanh mẹ con tôi đều bật cười, cái cười nửa như chế giễu, nửa như bao dung đối với sự dại khờ của một đứa trẻ lần đầu tiên đi chợ tết.

Vào tới chợ, tất cả như ùa ra trước mắt tôi. Tôi chưa từng thấy một nơi nào đông đúc, đẹp và rực rỡ như phiên chợ tết. Không thấy đâu những mặt hàng ngày thường như lá nón, củ nâu , áo tơi, bồ cót... nữa, chỉ toàn là những mặt hàng dùng cho tết. Để gói bánh chưng thì có gạo nếp, đậu xanh, lá dong, có lẽ gạo nếp, đậu xanh, lá dong chiếm đến phân nửa chợ và nếu nói ngoa lên một chút thì có thể nói “trên thì trời dưới thì có gạo nếp, đậu xanh và lá dong”. Rồi cam, quýt, bưởi chất thành từng đống cao như núi để bán cho người ta mua về chưng thành mâm ngũ quả, rồi thì thịt lợn, gà, vịt, thịt bò, hành củ, xu hào, bắp cải... miến gạo, miến dong... Những thứ này từ khắp nơi đổ về chợ Vinh rồi lại từ chợ Vinh đi khắp nơi. Nhưng mua bán hàng họ, đồ ăn thức uống cho ngày tết là chuyện của người lớn, chúng tôi không quan tâm. Chúng tôi còn những mối quan tâm khác, quan trọng hơn nhiều: trò chơi và đồ chơi.

Tôi kéo mẹ chen lấn đi đến khu vực bán pháo cho bằng được. Đây có lẽ là khu vực tập trung đông lũ trẻ chúng tôi nhất chợ: nào là pháo tép nổ lên từng tràng tiếng tạch tạch, nào là pháo “chuột” có thể lủi khắp nơi, vào cả những đứa trẻ đang xem pháo và mua pháo, làm chúng chạy dạt ra nhưng miệng lại cười ré lên thích thú; nào là pháo “đùng”, sau một tiếng nổ vang trời là những mảnh xác pháo đỏ trắng bay tung lên rồi phất phơ như những cánh hoa rơi xuống áo người đi chợ; nào là những “cối” pháo cối to như những cái mâm con (ấy là trong cảm nhận của tôi hồi ấy); nào là pháo “thăng thiên”, thỉnh thoảng lại bay vọt lên trời để lại phía sau một tia khói mảnh trước con mắt ngưỡng mộ của lũ trẻ... thôi thì đủ cả. Tiếng pháo tết của ngày xưa sao mà vui thế...

Người dân Việt vốn có đời sống hướng nội, hiền lành chăm chỉ làm ăn, lầm lũi nhẫn nhục, chịu đựng, quanh năm quanh quẩn với hè nhà xó bếp. Chỉ có ba ngày tết là có dịp hướng ngoại: trưng diện quần áo mới, mời nhau ăn uống, thăm hỏi nhau, rồi hội hè, đình đám... Họ ồn ào lên một chút trong những ngày tết để rồi lại trở về với đời sống thường nhật: vất vả, lầm lũi, chịu đựng... Tiếng pháo là đỉnh cao của sự hướng ngoại trong mấy ngày tết của người dân Việt. Nó lấp bớt (dù không thể làm đầy) những thiếu thốn trong đời sống tinh thần của họ. Nó là tiếng “keng” vang lên khi chạm cốc trong những tiệc rượu khi mà mắt đã được nhìn, tay đã được cầm, mũi đã được ngửi, lưỡi đã được nếm thì tai cũng phải có phần của nó... Thế mà... Ôi! Bao giờ cho đến ngày xưa?!...

Mấy lần mẹ kéo tôi đi theo mà không được, bà đành bảo: “ Con cứ ở đây rồi khi mô chơi chán thì ra đầu cửa chợ, chỗ mấy ông bán tranh và câu đối chờ mẹ, coi chừng lạc nha...”. Lạc thế nào được, mẹ không biết, tuy là lần đầu đi chợ tết nhưng trong năm đó đã vài lần bạn bè rủ tôi trốn học đi chợ phiên với chúng. Nghĩ là nghĩ thế nhưng tôi vẫn thấy hơi ghê ghê, đông người quá, biết có chen được mà ra không... Lâu lắm tôi mới rời hàng pháo, sau khi đã mua một phong pháo tép, một chục pháo chuột và một chục pháo đùng. Chục pháo chuột bỏ túi, tôi cầm phong pháo tép và chục pháo đùng đã được buộc lại lếch thếch đi sang các hàng khác. Nào là hàng rối dây (tôi tạm gọi thế vì đã trót quên tên nó mất rồi) với những Tôn Ngộ Không, Trư Bát Gới, Triệu Tử Long...làm bằng những đốt trúc ngắn, tay cầm gậy sắt, đinh ba, giáo, gươm... được buộc vào một cái cần làm bằng một thanh tre vót mỏng, phía trên có một miếng bìa hình tròn để hứng gió, mỗi khi có gió các con rối lại múa tít các thứ vũ khí đang cầm tay trông đẹp vô cùng. Nào là hàng bán con giống, tò he mà không hiểu sao dân xứ Nghệ chúng tôi hồi ấy quen gọi là “cu cò”.

Thực ra ở các phiên chợ thường nhiều khi vẫn bán cu cò mà thỉnh thoảng mẹ vẫn mua cho tôi vài con, nào là con gà trống đang vươn cổ gáy, nào là ông tướng cưỡi ngựa cầm gươm... chơi chán thì bẻ cổ đút vào bếp, nướng lên thế là có thêm một món ăn ngon đáo để (thuở ấy có mấy khi có quà bánh để ăn đâu). Nhưng ở phiên chợ tết nhiều hàng cu cò hơn, các loại con giống phong phú hơn và đẹp hơn (như cách nói bây giờ là “mẫu mã đa dạng”) hơn phiên chợ thường nhiều lắm. Rồi đến hàng hoa giấy với đủ loại, đủ màu sắc sặc sỡ.

Ngày trước, chợ tết ở Vinh không có bán hoa. Đất nghèo, lo ngày hai bữa cho đủ còn khó thì lấy đâu ra mà chơi hoa với cảnh. Ấy là nói hoa tươi, hoa thật chứ còn hoa giấy, hoa giả thì cũng có bán nhiều (ngày tết ngày nhất mà). Dân nội thành thì đã có hoa mậu dịch bán, dân các vùng về đi chợ thì đã có người bán từ các nơi khác về. Một cái sào tre cao quá đầu người được vấn rơm từ đoạn giữa trở lên, trên đó người ta cắm những bông hoa giấy đủ loại, đủ màu sắc, khi có người mua thì người bán tùy tiền mà rút lấy mấy bông trao cho. Những bông hoa làm bằng giấy hồi ấy đơn giản vô cùng, thậm chí có thể nói là thô thiển nữa. Đơn giản và thô thiển từ chất liệu, cách làm đến màu sắc, chủng loại chứ không đẹp và tinh tế như các loại hoa giả bây giờ. Tuy vậy, vì là ngày tết nên người ta cũng mua về cắm cho vui nhà. Nói vui một chút nhưng là cảnh thật của không ít nhà hồi ấy: hoa giấy còn có thêm một cái lợi nữa là nếu tết sang năm quên hoặc không có tiền mua hoa thì những cành hoa cũ còn đấy đem xuống chùi bụi đi là ta đã có hoa chưng cho năm mới rồi…

... Chen lấn mãi rồi tôi cũng ra được cổng chợ, nơi mẹ tôi dặn đứng chờ.Hai bên cổng chợ là nơi tập trung của các hàng câu đối và tranh dân gian. Tranh và câu đối bày đầy những chiếc chiếu trải đầy trên mặt đất, treo trên những cái giá sơ sài, đựng đầy trong những chiếc bồ... Tôi nhớ nội dung của các câu đối (mà dân Vinh hồi ấy quen gọi là câu đối “mậu dịch”) rất nghèo nàn: ca ngợi Đảng, Bác, thi đua sản xuất... Bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy văn chương chữ nghĩa dùng để tán tụng, ca ngợi xã hội đang sống thời nào cũng có và bao giờ cũng chiếm ưu thế, nhưng triệt để đến mức đó thì chỉ có thời bấy giờ và không chỉ ở Vinh. Câu đối thì nghèo về nội dung nhưng tranh dân gian thì thật là phong phú: nào là đám cưới chuột, thầy đồ cóc... nào là lý ngư vọng nguyệt, gà, lợn.. nào là bà Triệu cưỡi voi, Quang Trung cưỡi ngựa, Trần Quốc Toản ra quân... thôi thì đủ cả. Hồi ấy tôi đâu đã biết thế nào là tranh dân gian, thế nào là tranh Hàng Trống, Hàng Bồ, chỉ thấy các bức tranh màu sắc rực rỡ và đẹp đến mê mẩn cả người. Mẹ ra, tôi bắt bà mua bằng được một bức “Thầy đồ cóc” và một bức “Trần Quốc Toản ra quân” rồi mới chịu ra về...

Hơn năm mươi năm, kể từ lần đi chợ tết ở Vinh đầu tiên và cũng đã gần bốn mươi năm không có dịp đi chợ tết ở Vinh nữa nhưng cái hồn chợ Vinh vẫn còn đọng lại đâu đó trong tôi. Mà trong những ngày này, dù ở cách xa Vinh hàng ngàn dặm về phương Nam, tôi lại da diết nhớ về phiên chợ tết ngày xưa và mong mỏi được một lần trở lại cái ngày xưa ấy, dù biết rằng chẳng bao giờ có được.

* *

*

Tháng tám năm một nghìn chín trăm sáu mươi tư (1964), trái bom Mỹ đầu tiên dội vào kho xăng dầu thành phố (một trung tâm nhiên liệu lớn của miền Trung lúc bấy giờ), khói lửa chiến tranh bốc lên. Tuổi thơ của tôi (và cả thế hệ chúng tôi) chấm dứt. Năm đó tôi mười lăm tuổi.

Ôi! Vinh của tôi, thành phố của tôi, tuổi thơ của tôi.