Thứ Ba, 30 tháng 12, 2008

Vài hình ảnh ngày gặp mặt kỷ niệm 30 năm ra trương của lớp 15-k6


Trường Vinh bây giờ


Phút ban đầu


Chốn cũ với người xưa

Thầy chủ nhiệm khoa: " Chào các ông các bà khóa 15..."


Bữa tiệc đứng


Bộ ba thi nhân ngày ấy


Những người bạn gái



Thế hệ cháu bắt đầu

Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2008

Buồng thơm” –Một bài thơ hay



Buồng thơm


Đêm vắng
Buồng thơm
Em soi gương trộm
Ngọn đèn mượn gió nghé nghiêng

Phùng Cung

Làm đẹp, soi gương để kiểm tra nhan sắc hầu như là thuộc tính của bất cứ người phụ nữ nào. Dù ma chê quỷ hờn như thị Nở hay nghiêng nước nghiêng thành như Tây Thi, Đát Kỷ thì chắc chắn cũng giống nhau ở điểm đó. Nhưng soi gương trong buồng, lại là soi ban đêm, soi trộm, sợ người khác nhìn thấy thì chỉ có ở hai lứa tuổi:
Một là những thiếu phụ hoài xuân, nhớ tiếc tuổi xuân sắc của mình.
Hai là những thiếu nữ mới vào tuổi cập kê và nói như có người đã nói thì nàng đang dùng giằng ở tuổi nhỏ, vừa muốn lại vừa không muốn thành người lớn, nàng đang khám phá mình.
Ở đây tôi nghiêng về khả năng thứ hai bời tác giả đã dùng chử “buồng thơm”, theo tôi chỉ buồng của người khuê nữ mới đáng được gọi là buồng thơm. Thứ nửa tác giả dùng đại từ “em” vừa trìu mến vừa độ lương chứ không dùng chữ “nàng” có thể là thành kính nhưng xa cách.
Nhưng dù là thiếu phụ hoài xuân hay thiếu nữ đang khám phá mình thì lúc này, lúc đứng trước gương nàng cũng đang khỏa thân. Có khỏa thân thì mới cần kín đáo đền thế, cũng có khỏa thân thì mới thấy hết những gì của cơ thể mình dù đó là những nét quen thuộc đến mức đáng thương hay những nét lạ lùng mới nảy nở. Nàng khỏa thân trong buồng kín và nghĩ rằng việc soi gương trộm của mình là bí mật lắm, “Chỉ mình mình biết, chỉ mình mình hay…”. Nhưng nàng đã lầm, buồng đêm không chỉ có nàng mà còn có thêm hai nhân vật nữa đó là ngọn đèn và…gió. Ngọn đèn như một chàng trai trẻ vừa tò mò, vừa trợn trạo nhưng cũng vừa dè dặt rụt rè. Nghĩa là nếu cứ như vậy không có gí tác động thêm thì nó cứ yên vị thế, bằng lòng thưởng thức “âm bản”, tức phía sau của người đẹp. Nhưng ở đây lại có thêm ngọn gió quái quỷ làm đồng lõa, thế là ngọn dèn nghiêng đi, nghé nhìn,để thấy những gì đáng ra không được thấy. Đừng có ai trách gì nhọn đèn cả, nó cũng chỉ là tha thiết với cái đẹp thôi….
Bài thơ theo tôi thật tinh tế và tuyệt đẹp

27/12/2008


Thứ Năm, 25 tháng 12, 2008

ĐỢI

Anh đứng bẽn cầu, đứng đợi em…
Đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời em quen thành lạ

Vũ Quần Phương


Hai chúng tôi ngồi cạnh nhau đã lâu lắm mà vẫn không nói được gì. Li cà phê đen của anh đã nguội ngắt, li nước cam vắt của tôi đá cũng đã rã hết từ lâu, màu nước cam vắt vốn vàng rượi ngon lành đã trở thành một thứ nước đùng đục nhờ nhờ, nom rất khó chịu. Không phải chúng tôi không có gì để nói với nhau (lẽ nào lại vậy?), nhưng thời gian đã trở thành một bức tường quá chắc ngăn cách chúng tôi. Nó khiến cho những cảm giác trào sôi trong tôi và có lẽ cả trong anh nữa nguội lạnh như chưa bao giờ có. Tôi không ngờ được cơ sự lại ra thế này. Vậy mà con gái tôi, khi biết trong chuyến đi này tôi sẽ gặp anh, người tình cũ của tôi thuở thanh xuân, đã tỏ ra hết sức khó chịu, nó luôn canh chừng tôi. Mỗi khi tôi đi đâu nó đèu chú ý theo dõi, như thể nếu không thế thì anh từ đâu sẽ lao vào ôm lấy tôi, ôm lấy mẹ nó. Điều này làm tôi vừa bực bội vừa buồn cười. Chắc nó sợ tôi phản bội bố nó, cho dù từ lâu bố nó đã khôpng còn là cái gì trong cuộc đời tôi và trong cả cuộc đời nó. Nhưng…nó chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi thôi mà. Những quan niệm về đạo đức và thuỷ chung của nó sẽ còn thay đổi nhiều trong chặng đường đời sắp tới. Khó khăn lắm tôi mới bảo được nó đi chơi cùng mọi người khi tôi lấy cớ mệt trong người để nằm lại khách sạn… Tôi đã hẹn gặp anh hôm nay. Vậy mà bây giờ… Tôi đưa mắt nhìn trộm sang anh, thì bất ngờ bắt gặp ánh mắt anh cũng đang nhìn sang tôi một cách lén lút. Cả hai chúng tôi cùng vội nhìn sang nơi khác. Thật lạ lùng là khi ánh mắt chúng tôi gặp nhau, tôi không hề có một cảm giác nào như mong muốn và ước vọng: nó không dào dạt và cháy bỏng như hơn hai mươi năm về trước, khi chúng tôi còn yêu nhau với tất cả sự khờ dại nhưng chân thành của tuổi sinh viên thì đã đành. Nó cũng không có sự háo hức của những người tình đã lâu không gặp lại, mà trong ánh mắt anh tôi cũng không thấy sự háo hức ấy. Không lẽ tất cả mọi sự chớ mong, những lời hò hẹn gặp mặt… tất cả chỉ có vậy thôi sao? Người đàn ông thân yêu tôi đã ôm ấp hình bóng suốt nhiều năm dài bỗng trở nên xa lạ trong tôi biết mấy: Mái tóc đen nhánh ngày xưa đã bắt đầu đốm bạc, ánh mắt sắc sảo nhanh nhẹn ngày xưa đã bắt đầu chậm lại, đuôi mắt đã nhăn nhiều… Tất cả ở anh đã thay đổi, vậy mà suốt mấy mươi năm tôi không thay đổi hình ảnh anh trong tôi: nhanh nhẹn, hoạt bát, một chút bụi bặm lãng tử, một chút lịch lãm thư sinh, một ánh mắt hút hồn người, một nụ cười nửa như diễu cợt nửa như nồng ấm dịu dàng… Chẳng lẽ đây là con người đã làm điên đảo thần hồn tôi ngày xưa hay sao?... Nhưng… còn tôi trong anh thì sao? Tôi có còn là tôi của những ngày xưa nữa không…
Gần ba mươi năm về trước, anh là một trong những người lính mang trong mình những vết thương chiến trận trở về truờng đại học, còn tôi chỉ là một trong nhửng cô bé nhà quê mới tập tễnh bước vào đời. Ngày ấy khác bây giờ: các lứa tuổi ngày ấy cách rất xa nhau về kiến thức cuộc sông. Ngày nay các phương tiện thông tin đã kéo các lứa tuổi lại gần nhau hơn về sự hiểu biết. Vì thế trong mắt chúng tôi, những cô bé, cậu bé mới rời trường phổ thông, thì các anh là những thần tượng, những thần tượng về kiến thức, kinh nghiệm cuộc sống, về sự lịch lãm trong đời, về cả những công trận của các anh…Trong số những thần tượng của chúng tôi anh lại là người nổi bật lên với phong thái lịch lãm tự tin, thêm vào đó là một chút bụi đời lãng tử. Chính chút bụi đời lng tử ấy đã làm mê mệt trái tim biết bao cô gái ( trong đó có tôi) của khoa ngày âý.
Thế rồi chúng tôi yêu nhau như những đôi lứa khác của thời sinh viên. Chúng tôi yêu nhau với tất cả nỗi đam mê và dâng hiến. Anh đối với tôi là tất cả và tôi đối với anh cũng vậy. Anh chăm sóc lo lắng cho tôi hết lòng: Chiếc áo khoác ấm áp của anh choàng lên vai tôi khi trời se lạnh mỗi lần đi chơi, một quả quýt, một quả ổi, một viên kẹo dành cho tôi mỗi khi đi chơi với bè bạn về… (bây giờ nói thì nghe những điều ấy quả là buồn cười nhưng ngày ấy có chút quà cho bạn như thế đã là quý lắm) và nhiều, rất nhiều nữa.
… Còn đây một chiều đầu đông, trời se lạnh, Hai đứa cùng ngả mình trên đám cỏ ngoài đồng nhìn đàn én đang chao liệng đến rối mắt trước mặt. Yên lặng một lúc, tôi quay sang thấy anh đang khép hờ đôi mắt, tưởng là anh đã ngủ tôi tinh nghịch lấy một bông cỏ may đặt ngang miệng anh, định kéo một cái cho những hạt cỏ dính đầy miệng anh chơi. Ai ngờ chưa kịp kéo thì anh đã mở mắt, ôm choàng lấy tôi, kéo tôi ngã xuống trên ngực mình: “Đồ gian xảo này!...”. tôi khúc khích cười…. Những chuyện như thế trong cuộc tình của chúng tôi thì không kể xiết.
Chúng tôi luôn có những chuyến đi chơi. Khi mượn được xe đạp thì hai đứa đèo nhau đi xa, đi khe Bò, đi cầu Hạ, đi đễn Thanh… Khi không có xe chúng tôi cũng rủ nhau đi lang thang khắp thành phố, ra cả ngoại ô. Ngoại ô và những cơn mưa cũng thành kỷ niệm không phai trong tôi.
… Có lần hai đứa đang lang thang trên con đường làng ngoại ô thì trời bất chợt đổ một trận mưa rào, may mà vừa đến ngang một vườn chuối không biết của nhà ai bên đường. Anh chạy vội lại, nhảy kéo gục một tàu lá lớn rồi ghé răng cắn đứt, làm thành một chiếc “ô”. Anh đưa “chiếc ô lá chuối” đó cho tôi, rồi hai đứa cúng đi suốt đường mưa. Còn nhớ lúc đó tôi trêu anh:
- Sao nhìn vết cắn trên cuộng lá chuối này em thấy giống vết răng của con khỉ quá (chẳng là anh tuổi Thân mà!)…
Anh cũng cười:
- Anh là con khỉ thì em là con khỉ cái đẹp nhất đời…
Tôi đỏ mặt ghé miệng vào vai anh cắn mạnh một miếng khiến anh kêu trời.
- Ai bảo dám kêu em là con khỉ này…
Những ngày xưa sao mà đẹp thế, những ngày xưa đã cho tôi bao nỗi ngọt ngào nhưng cũng đưa đến cho tôi bao đau khổ trong quãng đời vừa qua…
… Bất chợt tôi giật mình… Bàn tay anh đã đặt lên vai tôi, kèm với tiếng gọi nho nhỏ:”Em!”. Hoàn toàn vô thức, tôi giật người ra xa anh, làm bàn tay làm bàn tay anh bỗng rơi xuống chiếc ghế bọc nệm láng trơn. Ngỡ ngàng và chua xót, tôi bật kêu lên một tiếng: “ôi!”. Anh thì sững sờ và rụt tay lại… Không, cử chỉ đó cũng không phải của anh ngày nào. Anh ngày xưa mạnh bạo biết bao nhiêu…
…Rồi chúng tôi dâng hiến cho nhau. Tôi chưa bao giờ quên giây phút ấy, khi anh thí thấm vào tai tôi: “Chiều anh nhé!”, nồng nực đam mê tôi trả lời anh nhẹ như hơi gió thoảng: “Dạ!”… Tôi bật kêu lên nho nhỏ khi anh đi vào tôi vì nỗi đau của người con gái lúc trở thành đàn bà nhưng niềm khoái lạc đã dâng lên trong tôi khiến tôi không kịp thở, tôi vồ vập ôm choàng lấy anh để được tiếp cận anh nhiều hơn… Không biết ai đã nói: “Người con gái sẽ không bao giờ quên được người con trai đầu tiên có quan hệ tình dục với mình…”, chẳng biết có phải thế không, nhưng với hai đời chông tôi chưa bao giờ có được cảm giác đam mê và thoả mãn về khoái lạc như đối với anh. Dầu sau này chúng tôi còn quan hệ với nhau nhiều lần nữa nhưng bao giờ anh cũng đưa đến cho tôi niềm sung sướng tột cùng… Chao ôi! Vậy mà đã hai mươi mấy năm trời, tôi đã trải qua hai đới chồng, nhưng nhiều đêm tôi vẫn còn trằn trọc, day dứt vì nỗi đam mê đã xa ấy…
… Nhưng mọi sự đã trở nên không dễ dàng khi hai chúng tôi về thăm nhà nhau. Cả hai gia đình đều tỏ ra không đồng ý với người bạn của con mình: Gia đình tôi không biết nghe “thầy” nào nói nếu tôi lấy anh thì trong ba năm sẽ chết vì tuổi chúng tôi kỵ nhau nên dứt khoát không cho tôi lấy anh. Tôi đã khóc hết nước mắt nhưng không lay chuyển được bố mẹ. Ông bà chỉ có một đứa con duy nhất là tôi nên rất cương quyết. Gia đình anh thì cho rằn tôi có số “sát phu” không thể làm vợ anh được. suốt năm thư tư chúng tôi sống trong dằn vặt ưu tư vì sự ngăn trở của hai gia đình. Dẫu sao những ngày ấy chúng tôi còn có nhau. Ngày chia tay mới thật là thê thảm: Thi xong chia tay tạm nghỉ về gia đình, anh dặn tôi: “Cố gắng thuyết phục gia đình em nhé, anh cũng thế!...”. Nhưng gặp lại nhau ngày vào trường nhận phân công công tác chúng tôi hiểu mọi sự không như ý. Cả hai chúng tôi đều không ai thuyết phục được gia đình. Đêm chia tay, có lẽ cũng giống như bao cuộc đổ vỡ không mong muốn của những cặp tình nhân khác: Nước mắt, rất nhiều nước mắt của người con gái cùng những lời an ủi của người con trai… Nhìn vẻ mặt anh lúc ấy tôi chỉ muốn đứng dậy, kéo anh bỏ chạy thât xa, thật xa tới nơi chỉ có hai đứa với nhau. Vậy mà khi trở lại bình tĩnh hơn, anh hỏi tôi:
- Nếu em thật sự yêu anh thì anh sẽ đưa em đi, vào nơi anh nhận công tác (anh sẽ trình bày với nhà trường), rồi ta sẽ về nhận lỗi với hai bên bố mẹ sau. em đồng ý không?...
Tôi đã không có đủ can đảm để đồng ý với anh…
Và anh đã ra đi như thế. Trong nỗi đau chia ly mất mát, gần như còn có cả nỗi đau của người tình bị phản bội… Nhưng với tôi nỗi đau còn lớn hơn nhiều trong những năm tháng xa anh tôi phải trả giá chio sự hèn nhát của mình… Tôi đã thức đã vật vã và khóc trong nhiều đêm trắng. Nhưng hơn hai năm sau, không nhận được tin tức gì của anh, tôi đã nghe lời bố mẹ, đi lấy chồng…
Có điều, đến bây giờ sau nhiều năm, tôi vẫn không hiểu tại sao tôi không đi theo anh, có thể không phải vào lúc ấy. Nhưng những năm sau này, khi người chồng trước cửa tôi đã mất. Thậm chí cả sau khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời (hai ông bà mất cách nhau hơn một năm) tôi vẫn không đến cùng anh? Không chỉ tôi tự đặt ra câu hỏi cho mình mà chính con gái tôi cũng đặt ra câu hỏi đó cho tôi. Khi con gái đã bắt đầu lớn, vào những lúc cô đơn, chỉ có hai mẹ con với nhau, tôi thường kể cho nó nghe về anh, về mối tình của chúng tôi mà theo tôi là tuyệt đẹp. Có lần nó đã hỏi tôi một câu, khiến cho tôi nhiều ngày sau đó còn ngẩn ngơ: “Vì sao lúc ấy mẹ đã không đi theo bác ấy?...”. Vì sao nhỉ? Vì sao mà ngay cả khi soạn lại mớ đồ lặt vặt cha tôi để lại, tôi bắt được cả một tập thư anh gửi cho tôi mà cha tôi đã không đưa. (Đến lúc ấy tôi mới hiểu vì sao từ ngày anh đi đã không có tin tức gì về cho tôi cả, tôi cứ nghĩ vì anh quá giận tôi). Những dòng thư đã vò xé tôi biết chừng nào:… “… Từ ngày ra đi đã hai tháng rồi không nhận được tin gì của em…”, “…Lập đông rồi đó em, trong này trời vẫn nóng như đổ lửa nhưng anh biết ngoài ấy trời đã bắt đầu se lạnh. Mùa này bầu trời xuống thấp lắm phải không, những cánh én có còn chao liệng trên cánh đồng như những buổi chiều nào khi hai đứa mình còn có nhau …”, “…Không ngủ được, cũng không làm gì được, chỉ nằm nhớ em. Nhớ ánh mắt và nụ cười của em, nhớ cả những giọt nước mắt của em khi hờn dỗi… tất cả như vừa mới hôm qua … vậy mà đã thành quá khứ rồi ư?...”. Vì sao? vì sao tôi đã không đi theo anh ngay cả khi đọc những dòng thư ấy. Không thể nói là tôi không biết tin tức địa chỉ của anh. Cho dẫu ngày ấy phương tiện thông tin liên lạc khó gấp trăm lần bây giờ nhưng nếu muốn tôi vẫn có được những thông tin chính xác về anh. Bằng chứng là ngày ấy tôi vẫn biết anh chuyển công tác vào lúc nào, anh ở đâu… Tôi biết hết, vậy mà tôi đã không đi theo anh. Phải chăng là sự tự ái của người đàn bà, vì đã nhiều đêm tôi gào lên trong tâm tương: “Vì sao? vì sao anh không trở lại với tôi, nếu anh thật sự yêu tôi? Vì sao trong những lúc tôi cô khỏ thế này lại không có anh? Anh ở đâu?...”.Hay là bởi sự mặc cảm vì sự hèn nhát của bản thân vì đã không đủ can đảm để đi theo tiéng gọi của tình yêu của anh. Cũng có lẽ tôi sợ, một nỗi sợ mơ hồ huyễn hoặc như không thật nhưng lại dần thành hiện hữu cùng năm tháng cách xa…
… Anh áp hai bàn tay vào hai bên má tôi, nâng mặt tôi lên. Tôi khép hờ đôi mắt chờ đợi. Một nụ hôn nhẹ nhàngvà tiép là một cái hôn thật mạnh bạo… Động tác vẫn là của ngày xưa… nhưng sao xa lạ quá: Môi anh khô và lạnh, không còn nồng ấm như ngày nào. Cũng không còn sự đam mê, chỉ còn lại hơi thở nặng và đục của một người sắp bắt đầu bước vào tuổi già…
…Với cả hai đời chồng tôi đều không hạnh phúc. Không thể nói tất cả là tại tôi nhưng rõ ràng việc tôi ôm ấp hình bóng một người đàn ông khác, để hình bóng một người đàn ông khác xen vào giữa cuộc sống chung của vợ chồng là lý do chính của sự không hạnh phúc ấy. Người chồng trước là do cha mẹ cưới cho tôi, nói là ép tôi lấy thì cũng được. Anh ấy là một người hiền lành nhưng cao thượng. Buồn vì tôi nhiều nhưng anh vẫn nhẫn nhịn không bao giờ nói ra, chỉ thỉnh thoảng thở dài… Tôi thì chỉ sống cho mình và những kỷ niệm của mình… Không may (hay là may cho anh ấy) là chỉ hơn hai năm sau ngày lấy nhau anh mất trong một tai nạn lao động. Người chồng thứ hai là do tôi tự chọn lấy cho mình. Nói là chọn nhưng thực ra lúc ấy tôi chủ trương lấy đại đi cho xong vì từ khi cha mẹ đều mất tôi cảm thấy cô đơn ghê gớm. Về sau nhiều lần tôi nhớ lại câu ca mà mẹ tôi hay dùng để đay nghiến mỗi khi khuyên tôi lấy chồng không được:
Còn duyên kén cá chọn canh….
Thấy nó đúng biết chừng nào. Nói vậy thôi chứ nếu tôi là người khác thì cũng có được một gia đình tạm gọi là êm ấm. Còn tôi thì tôi đã đẩy chồng vào tay người đàn bà khác, anh ta bỏ ra đi khi con gái vừa mới sáu tháng tuổi. Về sau này thỉnh thoảng anh ta có trở về thăm con, cho nó quà bánh, tiền nong. Tôi không bao giờ ngăn trở cũng như động viên con gái gần gũi hay xa cách bố nó. Lớn dần lên, tôi thấy nó cố giữ một khoảng cách với anh ta, có lẽ vì sợ tôi, nhưng tôi biết nó vẫn thương bố … Tôi thật không mong con gái tôi lại giống như mẹ nó…
Cách đây vài tháng, con Loan điện cho tôi nói rằng hè này sẽ tổ chức một cuộc họp mặt bạn bè cũ hồi đại học. Nó cho tôi số điện thoại của anh rồi cười: “hí… hí…”:
- Chuẩn bị đi. Chàng và nàng sau mấy mươi năm không gặp, chắc ác liệt lắm!...
Tuy tôi mắng nó: “Đồ quỷ!”, nhưng không hiểu sao lòng vẫn tháy xôn xao kỳ lạ. Thực ra thì tôi đã biết số điện thoại của anh từ lâu nhưng vẫn ngần ngại… Anh bây giờ đã có vợ, có con… Con Loan như một cái cớ để tôi quyết tâm. Nhưng tôi chưa kịp gọi thì anh đã gọi cho tôi trước.Gặp lại nhau, dù là trên điện thoại cũng mừng lắm. Từ đó chúng tôi gọi cho nhau luôn: tâm sự, hò hẹn, nhắc lại những kỷ niệm xưa… Chúng tôi (ít ra là đối với riêng tôi) tưởng rằng sắp lại được cùng nhau sống lại những ngày thần tiên thưở trước. Có điều, đến bây giờ nghiệm lại thì ngay từ những lần gọi điện thoai cho nhau ấy, tôi đã cảm thấy một điều gì đó mơ hồ, không nói thành lời được… Dẫu sao những ngày trước cuộc gặp mặt, tôi cũng đã xây bao nhiêu mộng, thế mà…
… Anh nói gì ấy nhỉ… “Em khác xưa nhiều quá!...”. Tôi chợt muốn trào nước mắt vì nhận ra một hiện thực phũ phàng: Không chỉ anh trong tôi mà cả tôi trong anh cũng không còn là tôi của ngày xưa nữa. Đã từ lâu chúng tôi không còn là của nhau nữa, có lẽ tận từ thưở chia tay nhau đêm ấy… Nhưng không lẽ như thế là hết tất cả hay sao?... Tôi chợt nhớ đến một kỷ niệm, rồi một ý nghĩ bật lên thành lời:
- Hay để em đi tắm một chút…
Anh cười buồn, cái cười của người đã bước qua tuổi đam mê từ lâu:
- Thôi, em ạ!...
Ừ! mà thế thật. Khi tình yêu chỉ còn là những kỷ niệm thì mọi sự níu kéo có ích gì đâu, thà để vậy… Nhưng hình như đây cũng là lần duy nhất tôi thấy loé lên hình ảnh của anh, người yêu thưở xưa của tôi: nhạy cảm, quyết đoán và tế nhị biết bao… Nhưng cũng chỉ có thế.
Hoàng hôn xuống dần, tôi nhận thấy diều đó qua khung cửa sổ khách sạn… Cả hai chúng tôi đều ngồi lăng yên trong bóng tối mập mờ của hoàng hôn thật lâu, không ai đứng dậy bật đn cả… Rồi tôi cương quyết đứng dậy, với tay lên công tắc điện… Mọi người đi chơi biển sắp về rồi, cả con gái tôi cũng vây…

Tháng 8/2008

Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2008

Bùi Giáng có hai câu thơ tôi rất thích vì nó rất hay, hay đến nỗi mỗi lần đọc tới nó tôi đều lặng người đi:
Dạ thưa, xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Nghự bên bờ sông Hương
Nhưngbây giờ nếu có ai hỏi tôi nó hay chỗ nào thì tôi không nói được. Bởi tại tôi quá kém hay bởi tại đây là những câu thơ thần, chỉ cảm được mà không giảng được.

THIÊN ĐƯỜNG LẠI MỞ

Vườn tưởng trọn mùa hoang phế
Còn thơm một nụ quỳnh hoa
Lịch tưởng trọn dòng hoen lệ
Còn tươi một ánh dương hòa

Giờ đây xuân thắm lòng tang
Dười gót chân ai bừng nở
Giờ đây đời ấm từng trang
Dưới búp tay ai lần giở


Em ơi một sớm trao tình
Đã nặng sầu thương nửa kiếp
Thuyền thơ buộc khóe thu xinh
Nảy xứ hoa hồng bướm đẹp

Ánh trăng hiền hậu bao nhiêu
Ngọc sáng mười phương tinh tú
Là đây bờ cõi tình yêu
Nào cặp môi đào hé nụ


Lòng anh còn ngát hương duyên
Đỏ thắm như lòng trái đât
Tình ta còn mới y nguyên
Như buổi thiên đường chưa mất

Nhớ nghe em niềm mong ước
Dâng đầy sóng mắt đê mê
Em ạ thiên đường lại mở
Chờ ta chắp cánh bay về

Giở lại một tờ thư cũ.... Một sáng mùa đông của gần ba mươi năm về trước, cùng em đọc bài thơ này của nhà thơ họ Vũ. Trên sân ga, tay trong tay mắt trong mắt... bây giờ em ở đâu. Tất cả đã thành kỷ niệm.

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2008

Những câu thơ hay của Phùng Cung


Nhiều năm về trước, được biết Phùng Cung qua truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh”, khi đọc (một cách dấm dúi) tập “Trăm hoa đua nở” xuất bản ở Gài Gòn trước giải phóng, thấy hay quá. Cũng qua “Trăm hoa đua nở” biết ông là người của nhóm “Nhân văn” phải đi “cải tạo”, thấy buồn. Rồi bẵng đi mãi cho đến năm ngoái (2007), lại được biết về ông và cách thức xuất bản tập thơ của ông qua bài viết của Phùng Quán trong tập “Ba phút sự thật”, lại thấy buồn thêm. Nhưng thật ra lúc ấy cũng chưa biết cả tên tập thơ nữa. Tối qua ngồi lướt web vào trang Hữu Đang, đọc bài viết của Hữu Đang về tập thơ “Xem Đêm” của Phùng Cung và cũng qua đó dược đọc “những bài thơ, những câu thơ hay nhất” (lời Hữu Đang) của ông. Quả thật đó là những thơ hay đến….., chỉ còn biết kêu lên “trời ơi!”, thật tội nghiệp cho dân tỉnh lẻ như mình. Thôi thì tha về blog mình làm của vậy, mà cũng có thể có ai đó cũng thiếu thông tin như mình vô tình có dịp ghé qua chăng…

Mẹ

Mồ hôi mẹ
nhỏ giọt

Con níu giọt mồ hôi

Đứng dậy làm người


Mồ hôi xương

Em vất vả

Tối ngày tất tả

Lưng áo em

Ngoang vôi trắng xóa

Cái trắng này vắt tận trong xương


Tội nghiệp

…..

Nửa thế kỷ

Bị lưu đày

Trong cõi tung hô.


Gia cảnh

Rổ không hờ hững quang treo

Nắng thả chào mào nghiêng nghé

Chó vẽ bóng gầy sân bếp

Gió khều tã vã múa may

Nắng hàn vi

Cửa liếp nối xa xăm

Người đi từ dạo đói

Chiều ghé sân hoang.

...


Cháo - canh

Trang trại trưa hè khát bữa

Lẻ tấm

Búng đèn

Đũa mắm

Đểnh đoảng mùi cháo - canh

Gịuc cả xóm cởi trần.


Tím cơ hàn

Nửa đời

Nước thải

Hưu non

Vã mồ hôi son

Tảo tần chiều sớm

"Cuốc lủi" lưng vơi

Ngẫm câu tục ngữ

Mắt trước mắt sau

Kinh hoàng di lụy

Tóc bạc vào mùa

Răng hơi bị đuối

Trệu trạo trái sung

Ruột tím cơ hàn.


Nghĩa trang

Lạnh nhịp sương rơi

Chiều - gạo đổ

Dế gào chân mộ

Trăng lên.


Cháo thí

Gió nã từng cơn

Bùa trấn trạch

Nấp trong giấy bản

Bến đò, quán chợ, ngã ba

Vật vã mùi cháo thí đêm hè.


Mùa nước mắt

Đê tiền triều gẫy khúc

Đồng ngập trắng

Con lềnh đềnh cõng vắng bơi suông

Thương em đứng giữa mùa nước mắt.


Gãi đất

Giặc quấy

Làng queo quắt

Tụi trẻ đi - đi hết

Dờ dật sức già gãi đất

...

Cái đói tròn

Lăn kín bốn mùa


Gươm báu

Mỗi chiến thắng

Một lần gươm tắm rượu

Ruồi vẫn qua lùng máu

sa trường


Phong trần

Mặt trịn nắng

Ngả màu chum, vại

Hì hụi lối mòn tử đạo

Lưng cơm chan đẵm phong trần.


Tháp Chàm

Chiều Phan Rang xanh đau

ngọc nát

Nắng Chiêm Thành quanh quất

tháp hoang


Đêm vó ngựa

Phải đâu nhật thực triền miên

Ngày tối hơn đêm

...

Quỳ gối chống tay vẫn còn sợ ngã

Mặt đất quá cheo leo.


Bèo

Lênh đênh muôn dặm

nước non

Dạt vào ao cạn

Vẫn còn lênh đênh


Chùm gió bấc

Gió bấc về

Chuối vừa mới trổ

Dằn vật lỗi mùa

Băn khoăn chung chiếc khố

Lấy gì che chắn gió xung quanh.


Cây đào

Thương cây đào ốm

Xuân về chẳng nụ hoa

Lá gầy run gió lạnh.


Chùm gió bấc

Gió bấc về

Gà con lên cơn sốt

Nhong nhóc đi, đứng

Chen nhau tìm chỗ ấm

Cẳng gầy lội gió


Cua đồng

Phận lấm

Tối ngày đào khoáy

Lưng nắng vẽ

Hoa văn tiền sử

Chài chãi đồng chiêm

Mấy kiếp rồi.


Vạc

Nắng táp cánh đồng

xơ xác

Bước liêu xiêu

Cái vạc ăn ngày.


Văn Miếu

Chim hát thánh thi

Vườn cổ thụ

Xum xuê hoa trái Đại Xuân

Nao nao gió thổi gác Khuê Văn

Gỗ, đá rêu phong

Văn Miếu hiện dấu tay

bác phó

Nhúng mồ hôi điểm chỉ

gửi tương lai.


Đêm Nguyên tiêu

Cổng Phật chuông lay hoa rụng

Mõ dẫn kinh ruổi nhịp

luân hồi

Vương lụy hương bay đứt, nối

Cành sương trăng níu

Giọt nguyên tiêu.


Say

Ai chuốc rượu

Cánh buồm say lảo đảo

Quanh quẩn quãng sông chiều

Quên nẻo ra khơi.


Đổ vỡ

Bình minh níu giọt tranh khoảnh khắc

Đổ vỡ trong lặng im

Hoa ngóng gió

Gửi hương tị nạn


Buồng thơm

Đêm vắng

Buồng thơm

Em soi gương trộm

Ngọn đèn mượn gió nghé nghiêng.


Dâu, biển

Chiều xâm xẩm

Vườn dâu đòi xanh biển

Con chim chích buông cành

bay liệng

Vẽ vòng sóng vỗ xa xưa.


Tìm em

"Tìm em như thể tìm chim

Chim ăn bể Bắc đi tìm bể Đông

(Ca dao)

Tìm về gặp em

Em đã đi

Vách, giường thơm lạnh

Mùi khăn áo cũ

Đêm nghiêng gió - chập chờn

mưa gõ lá

Không có sông

Sao có tiếng gọi đò.


Ê ẩm

Chợt nghe động trống

Trâu bò nhớn nhác

Dùi quật liên hồi

Ê ẩm tấm da khô.

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2008

ĐỢI SÁNG
Truyện ngắn


Lão cố với tay để lấy thêm một miếng vò dừa bỏ vào mẻ un rồi lại ngồi yên lặng. Lão ngồi như vậy đã lâu lắm, chén côm thằng Toàn mang sang dã nguội ngắt và khô cứng từ lâu. Từ chập chiều khi cơn mưa đuổi những con muỗi từ ngoài vào nhà, lão đã nhóm lên một mẻ un và ngồi yên lặng như vậy từ bấy tới giờ. Toàn thân lão bất động, trừ những lúc lấy vỏ dừa bỏ thêm vào cái mẻ un nhỏ. Hai tay đặt ngang trên gối, cằm tựa hẳn vào hai bàn tay, có lúc lão ngẩng đầu lên ngước cặp mắt đã mờ đục hầu như không còn ánh sáng dõi nhìn ra xa xa.
Nhìn dáng ngồi của lão người ta nghĩ lào đang nhờ tiếc một điều gì đó và nhớ tiếc một điều gì khác. Nhưng đời lão còn gì nữa đâu mà chờ, mà đợi. Vậy mà đã hơn ngàn đêm… lão cứ ngồi trong tư thế chờ đợi như vậy…Đợi gì, ngay cả lão cũng không biết,có lẽ lão đợi sáng chăng? Nhưng sáng ngày hôm nay thì có khác gì sáng ngày hôm qua hay sáng ngày mai với một người như lão?...Vậy mà lão cứ đợi…
… Không ra khỏi nhà nhưng lão cũng biết bây giờ đã vào khoảng mười giờ đêm, dã có tiếng bìm bịp kêu từ lúc nãy. Con nước dang lên, tiếng nước dội óc ách vào chân sàn nước nhà lão báo như vậy. Gió chướng lồng lộng thổi mang theo hơi lạnh của những ngày tháng chạp khiến lão rùng mình. Ngày trước, hầu như đêm nào nhà lão cũng vui vẻ rộn rịp vì tụi nó đi về ghé lại. Vào giờ này nếu chưa thấy đứa nào đến, vợ lão lại nhắc: “Tụi nó sắp về rồi đó!...”. Và rồi tụi nó về thật: hôm thì năm ba đứa du kích đi gài trái về qua tạt vào, khi thì mấy đứa bộ đội trinh sát từ Thuận Bảo vượt sông qua, khi thì một toán cán bộ huyện trên đường về tỉnh họp ghé lại chờ đường thông. Bữa ít, vài ba đứa thì chúng kéo cơm nguội cá kho (mà vợ lão đã cố tình nấu dư từ hồi chiều) ra ăn, tán dóc với nhau một hồi rồi đi thì đi, không đi thì lăn ra ngủ. Bữa nhiều, cơm nguội cá kho không đủ tụi nó tự động nấu thêm cơm kho,thêm cá hay nấu cháo vịt… Có cái gì là bả lôi cái đó cho tụi nó ăn hết. Từ lâu nhà lão đã trở thành một trạm giao liên của cách mạng. Vui nhất là nhửng đêm con út Nhơ theo anh em về, chưa nghe tiếng loảng xoảng buộc xuồng vào gốc mù u đã nghe tiếng nó rổn rảng:
-Má ơi!...má à!..
Cái miệng nó tía lia, lách chách suốt ngày khiến cho những nơi có mặt nó vui nhộn hẳn lên. Có lần vợ lão mắng yêu con gái:
- Cái miệng mày cứ tía lia như vậy thì có thằng nào nó dám lấy mày hở con.
Con út Nhỡ chúm miệng cười, liếc nhanh thằng Hiểu (sau này là chồng nó) rồi nói với giọng đanh đá cố tình:
- Vậy mà có người theo miết mà chưa được đó má!
- Thằng Hiểu đỏ rần mặt lặng thinh (tội nghiệp cái thằng, hiền như cục đất, vậy mà nghe nói đánh giặc dữ lắm). Vợ lão cười, chửi:
- Mồ tổ mày chứ!...
… Có tiếng nước vỗ qua mí bờ kinh. Vậy la đã mười một giờ hơn rồi, nước sắp láng qua mảnh sân thấp nhà lão.
Lão lại lấy thêm ba mảnh vỏ dừa bỏ vào mẻ un, dến mảnh thứ ba lão run tay đánh rơi miếng vỏ vào một con cóc già đang ngồi chồm hỗm bên cạnh. Lão rên lên một tiếng nặng nhọc như một lời xuýt xoa xin lỗi vì đã trót làm đau đớn đến một người bạn thân thết,trong lúc con cóc già chậm chạp từng bước nhảy đi nơi khác. Từ lâu rồi con cóc già đã trở thành người bạn của lão, một người bạn không biết nói, không biết tâm sự nhưng lại thường xuyên được nghe những lời lẩm bẩm , đứt quãng của lão già tám mươi trong những đêm như đêm nay. Lão biết con cóc đã già vì chỉ riêng thời gian nó bầu bạn với lão cũng đã mấy năm rồi.Hằng đêm con cóc cứ ngồi bên cạnh lão, lặng lẽ, im lìm. Thỉnh thoảng lại “tróc lưỡi” một tiếng đớp gọn một con muỗi đang lởn vởn chờ cơ hội để đậu vào hút máu lão . Nhưng bên đống un, không phải lúc nào cũng có muỗi nên thỉnh thoảng con cóc lại nhảy đi nơi khác cũng lặng lẽ như thế. Có điều, dù nó nhảy tới đâu lão không biết nhưng chỉ chỉ một lúc sau nhìn lại, lão đã thấy con cóc già ngồi ngay bên cạnh mình, đang dương cặp mắt buồn rầu nhìn lão như thông cảm…
Ngày xưa, lão cũng đã từng có một gia đình đầm ấm, vui vẻ. Nhà lão lúc ấytuy chẳng giàu có gì nhưng cũng tràn đầy tiêng cười của trẻ. Một đàn bốn đứa con của lão: con Theo, thằng Thời, thằng Cơ, con Nhỡ là niềm vui để vợ chồng lão nguôi khuây cảnh khó khăn nghèo túng. Nhưng rồi bệnh tật và bom đạn chiến tranh đã cướp hết của lão ba đứa: con Theo, thằng Thời đều chết vì một thứ bệnh giống nhau, bệnh thương hàn, lúc đứa thì lên chín, đứa mười một. Thằng Cơ thì chết vì đạn lạc lúc nó đang chơi ngoài xóm chợ thì giặc tràn vào, năm đó nó cũng đã được chín tuổi. Vậy là bốn đứa con mà chỉ mình con út Nhỡ nuôi được đến khôn lớn. Rồi con Nhỡ đi theo cách mạng, đến năm bảy tư cũng chết nốt, đểlại cho vợ chồng lão đứa cháu ngoại chưa đầy hai tháng tuổi…Vậy mà cũng đã hai mươi mấy năm rồi, con Hiên năm nay hai mươi sáu…
Ngày trước khi chưa lấy vợ lão ở với cha mẹ tận trong xóm chợ lận. Lấy vợ được hơn năm thì một hôm ông cạu vợ về thì thầm to nhỏ gì đó với vợ lão (về sau lão mới biết cậu vợ lão lúc đó là bí thư của huyện này). Sau d0ó vợ lão bàn với lão xin ông già mấy công đất gần như bỏ hoang tách ra phía đuôi thôn này và dọn ra ở. Thì ra bả nghe lời ông cậu, muốn lấy điểm này làm chỗ đi về cho những người cách mạng, Từ đó nhà lão nườm nượp người đi về. Năm một chín năm hai, cậu vợ lão bị Pháp bắn chết lúc vượt sông ngay khúc sau nhà lão nhưng vợ lão vẫn không chịu dời nhà vào trong xóm. Dần dà còn kéo thêm hai nhà nữa ra ở là nhà ông nội thằng Toàn bây giờ và ông già thằng hoan là con cô con cậu với vợ lão, thành ra một xóm nhỏ.Miếng đất lão ở có diều lạlà chung quanh đều là đất thịt nhưng ở giữa lại nổi lên độ ba bốn công là đất giồng cát, thế dất hơi tròn, khô ráo sạch sẽ. Trước khi lão ra đây, mẹ lão đã đi coi thầy, nghe đâu thầy bảo dó là thế đất “thiên phẩm”, ở tốt lắm, nên mới bằng lòng cho vợ chồng lão ra riêng. Nhưng vợ chông lão thì chẳng để ý gì đến thế đất thế cát cả, vì thế gì thì cũng phải làm mới có ăn. Có điều năm trước thằng Hoan đã dời nhà vào trong xóm, nó nói là để cho tiện việc học hành của con cái, thành ra xóm ba nhà xưa, nay chỉ còn lại có hai…Về sau lão mới biết nghe đâu thằng Hoan được một ông thầy nào đó nói cho biết, thế đất mấy nhà đang ở không tốt, nó là thế đất “thiên phẩn”, không có hậu. Cũng lại là chuyện thầy bà, nghe nói không à. Vợ chồng nhà Cầu ít lâu nay cũng đã nhắm nhứ nhưng chưa dứt đi được, một là vì không nỡ để lão lại một mình, hai là chúng cũng nghèo, lại đông con…
Trăng đã xế về tây nhiều rồi, lúc này là lúc con nước lớn nhất đây. Ngày còn người qua lại đây đông vui thì giờ này cả xóm cũng đã yên ắng hết. Chúng nó sau khi ăn uống sắp xếp xong đã ngủ lăn lóc, ngủ để chừng vài tiếng đồng hồ nữa lại đạp nhau dậy, ra đi…Lão lại bỏ thêm vào mẻ un một mảnh vỏ dừa, ánh lửa rựng lên khiếnlão nhìn rõ cái yếm dưới cổ con cóc già cứ phập phồng phập phồng như hơi thở của một người có chuyện lo lắng…
Càng nghĩ, lão càng thấy “sợ” vợ lão. Suốt mấy chục năm làm chỗ di vềcủa bộ đội , của du kích, cho những người cách mạng, không việc gì bả không làm để có tiền nuôi tụi nó: buôn bán trái cây, làm hàng xáo,bán hủ tiếu, vận động đóng góp, vay mượn…thậm chí bán cả “phần ăn” cha mẹ chia cho. Lão thì chẳng tham gia được gì nhiều, không phải lão sợ giặc mà tính lão vốn hiền lành chậm chạp, bả bảo lão làm gì thì lão làm nấy, vậy thôi. Suốt thời Mỹ vợ lão bị bắt lên quận ba lần nhưng lần nào thì cuối cùng chúng cũng phải thả ra, phần vì không có chứng cớ rõ ràng, phần vì cái miệng bả chửi dữ qua,đến thằng quận trưởng nổi tiếng ác ôn cũng kiềng mặt. Còn lão, năm bảy hai lão bị một thằng cảnh sát đánh một cây ma-trắc vào đầu đến ngất xỉu, trong lần chúng tính dồn hết ba nhà vào xóm chợ. Việc dồn dân thì không thành,nhưng không biết nó đánh thế nào mà lão mang luôn chứng động kinh. Ban đầu thì vài ba năm, sau dần giật lại một năm rồi sáu bảy tháng rồi hai ba tháng lão lên cơn một làn. Cũng may những lần lên cơn gần đây thì không còn bả nữa nhưng đều được con nhà Cầu trông thấy nên lão còn sông tới bây giờ.
… Không phải lão nghĩ tốt cho vợ, chứ nghĩa tình của bả đối với mấy đứa nó thì không có kém ai . Vậy mà khi ông năm Phương (bây giờ là chủ tịch tỉnh) đề nghị bả vào Đảng thì bả trả lời: “Tao có biết đảng phái, chủ nghĩa gì đâu, tao thương tụi nó gian khổ vì dân vì nước thì tao đỡ tụi nó một tay, vậy thôi!”. Mà vậy thật. Bả đâu có màng điều gì, cả sau này cũng vậy. Không kể những đứa đi qua về lại, những người mà gia đình lão đùm bọc nuôi dường trong nhà nhiều ngày cũng nhiều (thời ấy ba cái hầm bí mật nhà lão, một cái ngoài bụi tre, một cái dưới sàn bếp và một cái ngay nơi vựa củi, hầu như lúc nào cũng có người). Người đã chết nhiều, người đang sống cũng còn nhiều,nhưng từ ngày hoà bình thì không mấy người trở lại. Ngày vợ lão chết chỉ có con bảy Mai về viếng, thôi vậy cũng được…
Gió đã bắt đầu đứng, có lẽ sắp chuyển hướng trở ra, nước đã bắt đầu xuống. Không thấy con cóc già đâu, có lẽ nó đã nhảy vào xó tối nào đó để kiếm thêm vài con muỗi trước khi trở về bên lão.
Giữa năm một chín bảy tư thjì con út Nhỡ chết,để lại cho vợ chồng lão đứa con gài nhỏ là con Hiên, lúc đó chưa đầy hai tháng tuổi (trước đó, vào năm bảy ba, thằng Hiểu chồng nó đã chết trong một chuyến vượt sông). Bận đó con Nhỡ đang công tác ở Qưới Lâm thì nghe tin có biệt kích đột nhập vào làng, nó ôm con Hiên lúc bấy giờ mới hai tháng tuổi chui xuống hầm bí mật. Hình như có đứa nào đó phản bội, mật báo nên bọn biệt kích không tìm đâu xa, xộc ngay vào căn hầm bí mật nơi con út Nhỡ đang trốn, kêu nó lên. Con Nhỡ vừa lên khỏi miệng hầm, thằng trưởng toán biệt kích nổ súng lập tức. Bốn viên đạn M16 làm con út chết ngay, nhưng thật kỳ lạ, đứa con nhỏ mà nó đang bồng trước ngực lại không hề xây xát tý nào… Rồi người ta theo đường dây đưa con Hiên về cho vợ chồng lão nuôi. Khi con Hiên mười hai tuổi, lúc đó cũng giải phóng lâu rồi, ông bà nội nó (nghe đâu làm gì lớn lắm trên tỉnh) về bắt đi. Vợ chồng lão buồn lắm nhưng rồi bả lại an ủi lão (bao giờ cũng vậy, lão luôn là người được an ủi): “Thôi, nó được sung sướng thì mình cũng yên tâm mà con Nhỡ cũng được ngậm cười!”. Những năm đầu con Hiên về thăm vợ chồng lão thường lắm, lần hồi thưa dần, rồi vài năm gần đây thì không về nữa, không hiểu nó sống ra sao. Lão thì chẳng còn hôi sức đâu mà đi thăm nó, có điều lúc vợ lão cón sống, bả có lên thăm nó vài lần nhưng rồi thấy ý nhà người ta không muốn nên bả cũng không lui tới nữa…
Mấy lâu nay lão sống được là nhờ tấm lóng thơm thảo của vợ chồng con cái nhà Cầu mà ông già nó đã theo vợ chồng lão ra đây lập thành xóm năm nào. Tiền thì với một lão già tám mươi, hơn trăm ngàn tiền liệt sĩ của con Nhỡ coi như cũng đủ, nhưng người ta sớng được đâu chỉ bởi nhờ tiền… Trong nhà lão bây giờ chỉ còn lão và con cóc già. Con cóc mà có lần sang chơi, thằng Toàn con nhà Cầu đã hỏi lão:
- Ông ơi! Sao ông lại nuôi con cóc, sao ông không đập chết nó đi?
Lão cười buồn:
- Nó là bạn của ông, người thân của ông đấy cháu ạ!
Thằng Toàn tròn mắt ngạc nhiên, nó không hiểu. Mà nó không hiểu cũng phải, làm sao đứa trẻ bảy tám tuổi có thể hiểu được điều mà ngay cả cha mẹ nó cũng chưa chắc đã hiểu.
Gió đang mạnh dần lên, nước cũng đang rút mạnh, gà trong xóm đã eo óc gáy, nhưng trời vẫn còn tối lắm. Ngày trước, vào tầm này là tụi nó cũng ra đi cả rồi… Lão vẫn cố đợi trời sáng, nhưng một cảm giác đau buốt chợt dấy lên từ sau ót lão rồi xõng lên óc. Biết mình sắp lên cơn, lão cố chỏi đạp để tránh mẻ un và con cóc nhưng hình như không kịp nữa.

* *
*
Gần trưa, như thường lệ thằng Toàn mang cơm sang cho lão. Vừa bước chân vào nhà, nó chợt la lên thất thanh:
- Mẹ ơi! Ông chết rồi…
Cả nhà Cầu ùa sang: lão đã chết tự bao giờ, xác nằm vắt ngang trên mẻ un, hai con mắt đã bị kiến bu đầy. Bên cạnh lão, một con cóc già đang tròn đôi mắt nhìn mọi người vẻ ngạc nhiên, cái yếm dưới cổ nó vẫn cứ phập phồng, phập phồng…
Dương Sinh

CANH CHUA NAM BỘ

CANH CHUA NAM BỘ

Một đôi mắt dài ướt rượt, một giọng nói mềm mượt êm ru:

- Anh ăn thử, coi con gái Nam Bộ có biết nấu ăn ngon như con gái xứ Bắc không?

Chao ôi! Hơn bốn mươi tuổi, lận đận khắp trời ngày đầu có vợ, được cho ăn cái món ăn ưa thích của mình lại với mắt nhìn như thế, giọng nói như thé, tình quá là tình, không ngon sao được.

Kể cũng lạ đời, thằng con trai Bắc chuyên ăn canh dấm cá nấu với khế, mẻ, vào Nam lại ghiền món canh chua. Khứa cá trắng ngần, khổ mỡ cá dầy mà trong, bạc hà màu ngà, rau om đất xanh nõn, lát ớt đỏ tươi…mới nhìn đã thấy thích quá là thích. Rồi nước canh thì trong, vị chua thanh mà hậu ngọt dịu dàng, cái dịu dàng tạo nên bởi những trái me chín và chút đường mà không món canh nào có được. Lại thêm mắt liếc, tay đưa, miệng cười chúm chím, chỉ nội bây nhiêu đó đủ làm cho một món ăn không ngon cũng trở thành kỷ niệm rồi, huống chi…
Dầu vậy, ngon thì ngon thật, vì một món ăn như vậy trong một hoàn cảnh tình tứ như vậy, hỏi không ngon là tại làm sao? Nhưng sao trong cái ngon đến thế vẫn như thấy thiêu thiếu điều gì khiến cho cái ngon chưa trọn vẹn.Nhưng là điều gì kia chứ???
Đêm về nghĩ lại mới thương vợ và giận mình. Đã dặn lòng phải vứt bỏ gánh giang hồ đi để sống tron với người đầu gối, tay ấp mà sao còn nặng nợ? Nàng thì thật dạ tin người hay có chút nào chăng nàng mong sự chiều chuông, miếng ăn ngon là sợi dây buộc chặt kẻ lang thang? Em ơi! Làm sao em hiểu được rằng, tô canh em nấu cho anh ngon thì ngon thật, ngon cả miếng ăn lại ngon cả tình chồng nghĩa vợ. Nhưng đối với kẻ giang hồ thì miếng ăn ngon nhất vẫn là những miếng ăn trên bước đường giang hồ. Dù đó là nồi mắm kho bên rổ rau lẫn lộn lục bình với bông súng trong chiều mưa mù mịt của Đồng Tháp Mười. Hay tô cơm bụi đầu ghế giữa ba mươi sáu phố phường Hà Nội, cho đến một bữa ăn sang trọng nơi nhà hàng cao cấp ngay đất Sài Gòn…
Đành rằng miếng cơm giang hồ không thiếu chi vị đắng, nhưng đời giang hồ là thế, biết nói làm sao.

* *

*

Nhớ làm sao bữa canh chua ngày ấy…
- Chú hai mầy đi nhiều nơi, ăn nhiều chỗ, có biết canh chua nấu cá gì là ngon nhất không?
Làm sao trả lời đây? Đành là chẳng khó khăn gì để nói được ý thích của mình… nhưng còn cô Tám ngồi kia, chỉ trông dịp gắp bỏ cho cha một miếng để được gắp bỏ cho “chú hai mầy” một miếng còn ngon hơn. Cái miệng không thoa son mà hồng đỏ, ướt rượt như gọi như mời, lại thêm cặp mắt long lanh long lanh như hớp hồn người ta thế kia thì làm sao mà tìm được câu trả lời cho thật trúng kia chứ.
- Tía hỏi thế làm sao anh hai trả lời được, mỗi người một ý mà,phải không anh hai?À, tía ơi! con phần cho tía bộ ruột con cá lóc đây nè!
Ui trời! Thương thế mới là thương chứ, mới gặp nhau lần đầu mà đã biết thằng con trai xứ Bắc không tài nào nuốt nổi bộ ruột con cá lóc đắng ngắt ấy. Lại được tiếng là thương cha lắm lắm, nào biết thương ai hơn. Khôn thế!
- Lúc nãy chú hai mày khen tô canh chua cá lóc này của con Tám nấu là “nhất xứ”! Tao nói thật, chú hai mày đừng buồn. Một là chú Hai mầy nịnh con Tám, hai là chú Hai mầy chưa ăn hết miếng…
Lại ánh mắt chao nghiêng, mặt ửng lên trong ánh chiều bảng lảng, miệng nửa cười nửa không như diễu cợt lại như nũng nịu càng làm điên đảo kẻ đang say tình hơn say rượu.
-… Tao ngẫm trên đời này không gì dễ nấu như món canh chua mà cũng không gì khó nấu bằng món canh chua. Trên nhất thì cá bông lau, cá hú nấu với bạc hà, dưới thì cá trê, cá lóc nấu với giá, khóm; dưới nữa thì cá linh nấu với bông so đũa cũng đã ngon. Bần hàn ra thì nắm rau muống với vài trái me cũng đã thành canh chua rồi. Ay vậy mà nấu tô canh chua cho đúng chỉ đúng vạch thì đã có mấy ai… Như mầy khen tô canh con Tám nấu, thử nhìn lại coi còn khiếm đều chi không?
Ngon quá là ngon rồi còn gì, đâu phải nịnh người đẹp mà thật lòng khen đó. Có hiểu cho nhau không mà ánh mắt ném sang nửa như thăm chừng, nửa như dò hỏi..
- Chiều nay con Tám đi chợ mua đồ nấu mà quên mua mấy trái ớt chín. Tô canh nó bỏ ớt xanh vườn nhà nên không đẹp, không vui mắt. Chú Hai mầy thấy có vậy không?
Đúng thì đúng quá rồi, tô canh chua đúng mức về màu sắc phải đủ mấy màu xanh, đỏ, trắng, vàng, nâu. Nhưng mà… tiểu tiết, tiểu tiết, đáng gì ba cái thứ ngỏ mọn ấy. Nhất là khi ta đang say người thì có ai lại đi phân tích chi ly như vậy! Phạm thượng đấy!
…Đêm ấy, trước hàng ba có người con gái thủ thỉ với người con trai trong ánh sáng ảo mờ của vầng trăng lên muộn.
- Để rồi mai mốt, có dịp anh Hai trở lại, em sẽ nấu cho anh Hai một tô canh chua cá bông lau “đúng chỉ, đúng vạch” như tía em nói lúc chiều… Ngày xưa, đồng đất xứ mình không ai ăn canh chua cá tra đâu anh. Đất rộng người thưa, cá tôm vô kể thì ăn cá tra nấu canh chua làm gì . Thứ cá ấy kho và ăn thật nóng với cơm thì còn được chứ nấu canh chua thì dở lắm, mỡ chóng đông mà lại gây mùi. Cá bông lau thì khác, tô canh nguội rồi mỡ vẫn không đông thành váng, thịt cá đã thơm mà mỡ cá càng thơm…
Trời đất! Ngồi giữa đồng đất xứ quê mà nghe những lời nói ấy thì sao cầm lòng cho đậu. Đã thương vì sắc giờ lại thêm trọng vì tài, sợi giây ràng buộc này làm sao gỡ ra cho đặng…
-… Mà nói vậy chứ biết bao giờ anh Hai trở lại xứ này…
Lời nói như tiền định.Tám ơi! Tô canh chua em hứa ngày nào đến bây giờ tôi cũng chưa được nếm. Chắc bây giờ em đã tay bồng tay mang, hơn mười năm rồi còn gì...

* *

*

...Thời buổi bây giờ, xem ra người ta ăn uống thật khác người xưa. Nồi canh chua bây giờ, với bất kỳ thứ cá gì người ta cũng bỏ hầm bà lằng; khóm, giá, cà chua, thậm chí nhiều khi cả đậu bắp nhớt nhợt vào. Người xưa phân biệt rành rẽ lắm: cá hú, cá bông lau thì nấu với bạc hà, chỉ có cá lóc, cá tra mới nấu với khóm, giá, cà. Tinh lắm, cá tra, cá lóc lắm mùi tanh mới cần những thứ đó để át vị, còn cá hú, cá bông lau thì cần chi, chỉ thêm mất mùi cá.Lại nữa, canh chua trước nhất là phải… chua. Nhưng chua mà không “lét”, phải có hậu ngọt. Để tìm cái hậu ngọt đó, không thiếu chi người ném vào nồi cả muỗng bột ngọt. Rồi rau nêm, họ thay om đất bằng cần dày lá hay húng quế, thậm chí có người còn cho cả hành ngò gai vào nồi canh chua…
Vất đi, vất đi tất. Cái đạo canh chua (Sao lại không thể gọi là đạo canh chua khi đã có hoa đạo, trà đạo) không chấp nhận những thứ tả pí lù đó. Cái hậu ngọt của canh chua phải được tạo nên bởi chút đường. Ít thôi, nhưng phải đủ, ít quá không ngọt, nhiều quá nổi lên vị ngọt lợ khó chịu của đường, khó thế. Bột ngọt thì tuyệt cấm, vì vị thịt của nó sẽ át mất mùi thơm của cá, như thế thà nấu canh thịt mà ăn. Chỉ riêng việc bỏ khứa cá vào nồi lúc nào cho đúng cũng có phải dễ đâu! Nước sôi già, lọc me xong (mà phải là me chín đấy) mới bỏ cá vào,vị chua ngọt của me chín vừa làm săn chắc miếng cá lại vừa làm d0ậm vị cá thêm. Chờ cho khi cá đã chín được chín phần (nhớ là chỉ chín phần thôi), bỏ bổi vào, chờ sôi lại, múc ra tô ngay. Lúc này mới rắc thoáng rau om và vài lát ớt chín đỏ lên trên, khi ăn mới đè cho rau và ớt chìm xuống…
Chao ôi! Miếng ăn qua miệng, vào đến ruột thì thôi, sao mà cũng lắm điều nhiêu khê đến thế.
Nhưng “ nghề chơi cũng lắm công phu” mà.

* *

*

Cái lẩu được bưng lên, bốc hơi nghi ngút.
- Hoan hô, hoan hô! Lẩu chua cá bông lau, nhất xứ
Rồi thì tiếng nắc nỏm khen ngon ồn ào cả lên. Giữa đám đông ấy, có một người mặt bỗng đỏ lên như thẹn thùa điều chi. Lựa lúc không ai để ý, người ấy len lén bước ra ngoài.
- … Chú Hai mầy nghe tao nói rồi nghiệm coi có đúng không: canh chua phải nấu từng tô, vừa ăn vừa nấu, ăn hết lại nấu. Nấu cả nồi, ăn nửa chừng đã nguội mất, lại thêm cá nát rau nhừ, làm sao ngon được. Bây giờ người ta nghĩ ra cái lẩu, nóng thì có nóng thật, nhưng đốt than hoài nước canh sắc lại, mặn ngọt không chừng thử hỏi còn chi để ham nữa…
… Thôi, chấp làm chi, chấp làm chi hả chú Tư, những kẻ ăn một nơi, ngồi một chỗ. Bởi miếng ăn phải khó lắm thay mới có nhưng ăn một miếng và biết ăn một miếng còn xa cách biết chừng nào.

Dương Sinh

Thứ Hai, 15 tháng 12, 2008

Vô đề

Trọn nửa đời phiêu lãng
Hồn chẳng biết về đâu
Nay chiều ba mươi tết
Mai nở giữa lòng đau
Vậy mà đã gần hai mươi ba năm trôi qua (đúng ra là hai mươi hai năm mười một tháng) kể từ khi viết bài này. Cho đến bây giờ cũng chẳng hiểu vì sao ngay trong những ngày bế tắc cùng cực đó mình còn có thể có được giọng điệu lạc quan như vậy. Nó thật mâu thuẫn với dôi câu đối mình cũng viết năm đó. Có điều đôi câu đối thì mình không ghi lại được nên chữ nhớ chữ quên,cũng ghi lại để rồi sau nhớ được sẽ bổ sung thêm
Tết đến, có bánh có trà có hoa có rượu, thiếu mái ấm gia đình nên vẫn thiếu
xuân về.... không tấm lòng tri kỷ cũng là không