Thứ Năm, 21 tháng 1, 2010



KIÊU BINH KHIẾP ĐẢM

... Vị tướng già trầm ngâm một chút rồi nói, tiếng ông không lớn nhưng giọng vẫn còn trong và ấm, đến nỗi nếu chỉ nghe mà không nhìn, sẽ không ai nghĩ đó là giọng của một ông già đã sang tuổi bảy mươi tư:
- Trong đời người lính, có những trận đánh mà họ sẽ nhớ suốt đời không phải vì quy mô to hay nhỏ của nó, cũng không phải vì diệt được nhiều hay ít sinh lực địch...
Ông chợt ngừng lời. Tôi vẫn ngồi im lặng, không dám lên tiếng vì sợ cắt đứt dòng hồi tưởng của người lính già về quá khứ hào hùng một thưở của bản thân, và biết chắc mình sắp được nghe kể về một trận đánh đã để lại những ấn tương sâu sắc trong lòng những người đã trực tiếp tham gia... Quả nhiên, sau một phút ngừng như để nhớ lại, ông nói tiếp:
- Không phải chỉ có tôi mà có lẽ bây giờ hỏi lại bất cứ người lính náo của Tiểu đoàn Năm mười sáu (516) đã từng tham gia trận đánh ấy, chắc chắn họ sẽ kể lại tường tận diễn biến của trận đánh, bởi lẽ nó khá đơng giản không nhiều diễn biến gay go, nhưng nó lại mang một ý nghĩa lớn. Đó là trận đánh chiến đoàn thiết giáp M.113 của địch ở lộ mười bảy (17) đoạn ngã ba lộ Điệp đi An Hóa.
Sau đây vẫn là lời ông Tám Vị kể về trân đánh ấy.

*

* *

... Dạo đó là vào nâm một chín sáu sáu (1966) , phong trào cách mạng của Bến Tre đang ở giai đoạn phát triển mạnh. Trong đó những trận đánh của Tiểu đoàn Năm mười sáu đã góp phần không nhỏ hỗ trợ phong trào. Thành lập từ tháng tư năm sáu tư (4 – 64), lúc này Tiểu đoàn đanh ở thời ký sung sức. Các trận đánh của Tiểu đoàn hấu như trải ra khắp địa bàn tỉnh, vừa có tác dụng tiêu diệt sinh lực địch, vừa có vai trò hỗ trợ cho phong trào hoạt đông quân sự ở các xã, huyện ... Trước tình hình đó, kẻ địch ở Vùng Bồn chiến thuật đã đưa về Bến Tre (lúc đó gọi là tỉnh Kiến Hòa) một thiết đoán Thiết giáp M.113 gồm hai mươi bốn (24) chiếc. (Việc đưa thiết giáp về địa phương này chắc đã được quyết định sau khi nghiên cứu kỹ về tính chất của địa bàn Bến Tre lúc ấy).
... Cho đến trước trận đánh lộ Điệp, bọn M.113 này ỷ váo lợi thế là chiến xa nên hoạt động rất táo bạo và ngổ ngáo. Nên biết rằng M.113 là loại xe rất thuận lợi ở địa hình sông nước. Nó có thể lội sông, Kinh rạch có chiều rộng vừa lọt chiều dài thân xe là nó có thể vượt qua. Trên bộ, nó có thể càn lướt vào vùng có cây cối cỡ bắp chan mà coi như không có cản trở gì. Duới ruông, ở độ lầy một người vác theo một giạ lúa vượt được là nó có thể vượt được. Đạn của vũ khí bộ binh chỉ như gãi ngứa ngoài vỏ thép của chung... Nhiệm vụ của bọn náy là hỗ trợ bộ binh trong các cuộc càn quét, ruồng bố, đồng thời giải tỏa những đồn bót bị quân ta và du kích bao vây trong những vùng thuận lợi cho chiến xa hoạt động. Do tính chất đặc biệt của nó nên những nơi nào bọn này đến là du kích phải rút chạy (vũ khí nặng diệt cơ giới thì vào lúc này bộ đội cũng còn thiếu nói chi du kích). Vì vậy công việc giải tỏa của tụi nó đã nhiều lần thành công. Có thể nói bọn này đã “hù nhát” được anh em du kích ở các địa phương một thời gian. Chính điều này càng làm tăng thêm tính ngổ ngáo, ngang tàng của chúng. Chúng táo tợn đến nỗi từ Kiến Hòa qua phà An Hóa, xuống Bình Đại rồi tràn qua Rạch Mây ra sông Ba Lai mà về lại tỉnh lỵ. Lần khác chúng qua Mỏ Cày, xuống chợ Tân Trung, ngược lên Bình Khánh ra vàm sông Hàm Luông rồi xuống tàu trở về... Nên nhớ rằng các Rach Mây, Tân Trung, Bình Khánh là các vùng giải phóng mạnh hay căn cứ của ta lúc bấy giớ, nhưng ta cũng chưa có cách gì trừng trị được bọn này...
... Khoảng tháng ba, tháng tư năm sáu sáu (1966), anh Hai Thanh lúc đó là Phó Tư Lệnh chính tri Khu tám theo Tiểu đoàn Gi – Rông về Bến Tre. Lúc này Tiểu đoàn Gi – Rông hoạt động ở một hướng khác nhưng anh Hai Thanh khi làm việc với Tỉnh đội Bến Tre đã nhận thấy áp lực lớn của Thiết đoàn chiền xa M.113 đối với chiến trường Bến Tre. Ông ra lệnh:
- Phải đánh cho bọn kiêu binh này một trận (từ “kiêu binh” là do anh Hai Thanh đặt), nếu không tiêu diệt được chúng thì cũng cho chúng một trận phủ đầu. Làm nhụt nhuệ khí của chúng, để chúng bớt nghenh ngang, làm giảm bớt áp lực tâm lý về sự bất khả chiến bại của chiến xa trong anh em chiến sĩ và hỗ trợ cho phong trào kháng chiến phát triển mạnh hơn...
Sau đó, một nhóm cán bộ do anh Chín Dũng (lúc đó là cán bộ tham mưu tỉnh đội) chỉ huy, đi chuẩn bị chiến trường. Sau một tuần điều nghiên, anh Chín Dũng về báo cáo với tỉnh đội là khó khăn lắm vì không có địa bàn để phục kích. Anh Hai Thanh nói:
- Tám vị đâu, vì sao nhiệm vụ này sẽ giao cho Năm mười sáu mà không gọi Tiểu đoàn trưởng của nó về làm công tác điều nghiên? Gọi Tám Vị về đây cho tôi...
Lúc này tôi đang cùng Tiểu đoàn đóng ở Lương Phú (những điều trên là về sau tôi nghe anh em nói lại). Điện của Tỉnh đội chỉ nói là về gặp anh Hai Thanh mà không nói rõ lý do. Tôi về tỉnh đội mà lòng hơi lo lo vùa vì không biết vì sao phải gấp như vậy vừa vì anh Hai thanh là người nổi tiếng khắp Khu Tám về sự nghiêm khắc. Nhiều anh em Bến Tre sau khi tiếp xúc với anh Hai Thanh đã nhận xét: “Ông Hai Thanh còn dữ hơn cả ông Tám bàn tay đỏ (Tám Chữ) nữa!”.
Gặp tôi anh Hai Thanh giao nhiệm vụ và hỏi ngay:
- Thế nào, liệu có làm được không?
Tôi xin để sau khi điều ngiên về mới trả lời. Nghiên cứu lại hoạt động của chiến đoàn Thiết xa mấy tháng qua và báo cáo của nhóm điều nghiên lần trước tôi thấy quả thật khó khăn: Bọn này hoạt động gần như không có quy luật gì cả. Trên địa bàn tỉnh, nơi nào bị vây hãm, nơi nào tổ chức ruồng bố cần đến chúng là chúng có mặt. Thường bọn này đi không cần bộ binh hỗ trợ, khi năm, bảy chiếc, khi mười mấy chiếc, cũng có khi chúng đi nguyên cả Thiết đoàn... Chỉ có một đoạn đường là chúng hoạt đông tương đối có quy luật , đó là đoạn đường từ tỉnh lỵ Kiến Hòa đến bến phà An Hóa:
Có khi năm bảy ngày, có khi mười ngày chúng lại làm một vòng từ tỉnh lỵ xống An Hóa rồi về (Về sau tôi mới biết đây là một hoạt động bắt buộc của công tác chuẩn bị trước đối với những loại vũ khí, khí tài có khả xảy ra nhiều sự cố bất ngờ về máy móc...). Tuy nhiên rất khó tổ chức phục kích ở đoạn đường này vì nó hết sức trống trải, hai bên lộ đều là đồng ruộng trống trơn, lại không có điểm chặn đầu để bắt xe địch chạy chậm lại, vì mé trên gần quận lỵ Trúc Giang là khu dân cư. Thêm một khó khăn nữa là tại ngã ba Lộ Điệp có một bót lớn với vài chục tên lính và một cây mi-đo cao, có thể khống chế cả một vùng từ rất xa... (Cũng cần nói thêm đây chính là đoạn đường mà về sau, vào năm bat3 tư (1974) Tiểu đoàn Năm mười sáu đã phối hợp vói một đại đội của Tiểu đoàn Hai sáu ba đánh tiêu điệt Tiểu đoàn Bảo an Bốn lẻ một (401) và tên Sáng – Tiểu đoàn trưởng ác ôn)... Nhưng lệnh là lẹnh, nhất lại là lệnh từ ông Hai Thanh.... Tôi cùng một số anh em đi điều nghiên suốt ba bốn ngày. Qua nghiên cứu thực địa, tôi thấy chỉu có một địa điểm dùng làm vị trí chặn đầu đoàn xe khi chúng từ An Hóa quay về. Đó là một khu vườn chừng vài công đất nằm thành một giải tương đối hẹp kéo từ mí vườn chính phía đầu trên xã Qưới Sơn ra cách lộ Mười bảy khoảng ba bốn chục thước. Dãy vườn này nằm cách điểm dân cư gần nhất của xã Tân Thạch hơn năm trăm mét, nên khả năng dân chúng bị ảnh hưởng khi trận đánh xảy ra là không nhiều. Còn một điểm nữa có thể dùng để phục kích địch, là mí vườn xã Phú An Hòa, mé dưới Lộ Điệp. Chỗ này cách đồn Lộ Điệp (và lộ Mười Bảy) khoảng bảy tám trăm thước. Nếu bố trí hỏa lực ở đây, ta có thể kiềm chế đồn Lộ Điệp, không cho nó có điều kiện ứng cứu khi đoàn xe bị chặn lại ở mé trên...
Tôi vừa trở về, gặp anh Hai Thanh, anh đã hỏi ngay:
- Thế nào, đánh được chư?
- Có thể đánh được – Tôi vừa cười vừa trả lời.
- Hoặc đánh được hoặc không đánh được chứ không “có thê” - Anh Hai Thanh nghiêm giọng.
- Vâng, đánh được – Tôi cũng vội vàng lấy lại thái độ thật nghiêm.
Sau đó tôi trình bày kế hoạch tác chiến. Nghe xong anh hai Thanh chính thức giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn Năm mười sáu. Nhận nhiệm vụ xong, tôi có đề nghị anh Hai Thanh cho mượn của tieu3 đoàn khác một số khẩu DK75 và cối 82 ( bọn M.113 có một nhược điểm là rất sợ đạn cối, vì cấu trúc xe to lớn dềnh dàng mà lại không có nắp che phía trên như xe tăng, nên nếu lọt một trái đạn cối từ phía trên xuống là tanh banh hết). Tôi còn nhớ khi nghe tôi nói sẽ dùng đến bốn khẩu DK 75 để khống chế bót Lộ Điệp, anh Hai Thanh hỏi:
- Cái bót bao lớn mà phải dùng đến bốn khảu DK.75
Tôi trình bày:
- Thực ra cái bót thì không lớn, nhưng nếu không khống chế được nó ngay từ đầu thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến trận đánh vì nó nằm trên đường xung kích của bộ đội...
( Nói thế chứ về sau tôi chỉ bố trí mé đó hai khẩu DK.75!)
... Theo kế hoạch, đêm trước ngày diễn ra trận đánh, ta cho du kích áp sát đồn An Hóa, làm như chuẩn bị vây hãm đồn. Quả nhiên trưa hôm sau, vào lúc gần mười một giờ, gần nguyên cả Thiết đoàn của chúng gồm hai mươi mốt xe ầm ầm lao theo lộ Mười Bảy xuống An Hóa với tất cả sự nghênh ngang “mục hạ vô nhân”. Đoàn xe vừa qua khỏi Lộ Điệp, tôi ra lênh cho bộ đội chiếm lĩnh trận địa ngay. Cũng cần nói thêm ở đây là không chỉ ta không thể bố trí đánh chúng trên đường từ trên xuống như đã nói ở phần trên mà cũng không thể bố trí phục kích từ trước vì ở đây địa hình trống trải, phạm vi đội hình hành quân của bọn chiến xa lại lớn nên rất dễ lộ. Chỉ còn cách là khi bọn chúng vừa đi qua xuống dưới, ta bố trí phục kích ngay để đón chúng trên đường về. Như vậy ta chỉ có vài tiếng đòng hồ để bố trí trận địa...
Trận địa bố trí xong, mười hai giờ... rồi mười hai giờ rưỡi... vẫn chưa thấy bóng dáng địch quay trở về. Một sự căng thẳng bao trùm lên tất cả... Mười hai giờ bốn lăm, đài quan sát báo cáo đoàn xe địch đang chuẩn bị khởi hành trở về. Tôi ra lệnh cho anh em tất cả vào vị trí... Khoảng hơn một giờ chiau62, đoàn xe địch đi dần váo trận địa phục kích. Trái với lúc đi, chùng không tỏ vẻ hùng hổ nhưng lại rất chủ quan. Dàn thành đội hình hàng hai, một trên lộ Mười Bảy, một dưới ruộng đã gặt, cự ly gián cách khoảng năm mươi mét một xe với tốc độ khá chậm như kiểu nhởn nhơ...Khi những chiếc đi đầu còn cách điểm chặn đầu của ta khoảng hai trăm mét, tôi hạ lệnh: “Băn!”. Lập tức các loại súng của ta đồng loạt nhả đạn. Loat65 đạn đầu, chưa trúng chiếc nào, chúng khựng lại định bố trí đội hình để phản công thì loạt thứ hai bắn tới trúng ngay hai chiếc đi đầu, cả hai chiếc đều bốc cháy... Lúc này bên Lộ Điệp, cây mi – đo đã bị bắn sập, không thấy địch trong đồn xuất kích hay chống cự... Rồi tiếng hô xung phong của bộ đội vang rền cả một giải đồng Phú An Hòa. Có lẽ lúc này chúng mới thấy sợ, nhất là khi chiếc xe thứ ba bị trúng đạn DK cử ta bốc cháy rùng rực trên lộ Mười Bảy ngay phía dưới đồn Lộ Điệp. Lập tức cả đoàn xe quay đầu chạy trở lui về phía An Hóa với tốc độ cao nhất (kể cả ba chiếc trúng đạn cũng mang theo cả khói lửa trên mình mà chạy... Về sau hình dung lại trận đánh, tôi nghĩ: Người ta nói “chạy như ma đuổi”, có lẽ cũng chỉ chạy đến vậy). Lúc này bộ đội ta vẫn xung phong đuổi theo...
... Chạy thoát khỏi trận địa chừng trên hai cây số, ra hẳn ngoài tầm bắn của ta và tiếng hô xung phong của bộ đội đã ở lại phía sau rất xa. Chúng mới tổ chức lại đội hình, quay đầu xe bắn về phía quân ta. Lần này chúng bắn xối xả, không tiếc đan . bắn vô hồi kỳ trận, có thể gọi là mưa đạn cũng không sai. Đạn bắn dày đặc đến nỗi về sau khi nghe tôi nói đùa là tụi nó “bắn lột da dép” thì Tám Ngọc, đại đội trưởng đại đội Một trong trận ấy, nói: “Phải nói là chúng bắn “cuộn bánh tráng” mới đúng!”. (nghĩa là đạn bắn dày tới mức cỏ do lớp đạn trước dẫy lên, lớp đạn sau liền tấp tới và dẫy tiếp, cuối cùng cỏ cuộn lại thành từng cuộn như bánh tráng người ta đem nhúng nước rồi cuộn lại để ăn – Tam Ngọc giải thích vậy)... Lúc này ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Nhận thấy trận đánh đã hoàn toàn thắng lợi, nhưng ta cũng chẳng thể làm gì hơn với bọn còn lại. Hơn nữa nếu không rút nhanh sẽ phải hứng chịu đòn phản ứng của bọn trực thăng trên hạm tàu phía sông Tiền và pháo các nơi đổ về. tôi hạ lệnh cho anh em thu dọn chiến trường và rút nhanh... Quả nhiên, khi quan ta vừa qua được sông Ba Lai thì trực thăng và pháo địch đã quần nát khu vực trận đánh vừa xảy ra.Trận này, địch bỏ ba xe M.113 nằm lại trận trận địa. khoảng ba bốn chiếc khác bị thương. Ta diệt luôn đồn Lộ Điệp và điều quan trọng là không bị tổn thất một chiến sĩ nào... Có điều vui vui là sau khi trận đánh kết thúc, anh em đại đội Hai (mé Lộ Điệp) gặp tôi báo cáo, có bắt được trong đồn một đứa nhỏ lối mười ba, mười bốn tuổi. Nó khai người Châu Bình và là “cháu ông Tám Vị”. Lúc đầu tôi hơi ngớ ra nhưng khi nghe nói nó khai rành rẽ tên tuổi, cha mẹ, ông bà... thì tôi mới biết nó là con đứa cháu gọi tôi bằng chú (nó kêu tôi tới bằng ông). Thì ra ông già nó “kiết”, sai nó sang Mỹ Tho xin đứa em vợ (cậu thằng nhỏ) mấy cục pin đại dùng trong thông tin của lính về để nghe radio. Về ngang bót Lộ Điệp, tụi lính xét thấy hơn chục cục pin lớn, nghi nó mua về cho du kích đánh trái, liền bắt lại. Khi ta bắn vào đồn, nó liều chui đại dưới gầm giường, may không dính đạn.
` *
* *

... Gọng ông Tám Vị càng trở nên hào hứng:
Cái được lớn nhất của trận đánh ấy, đúng như ông Hai Thanh nhận định: Nhuệ Khí của bọn này nhụt hẳn đi. Kiêu binh đã khiếp đảm, không còn dám ngang tàng, phách lối như trước. Nếu trước đây chúng đi không cần bộ binh hỗ trợ thì từ đó trở đi chúng đi đâu cũng phải có bộ binh hộ tống. Trận Sơn Phú năm một chín sáu tám (1968), khi chuẩn bị đổ bộ lên bờ, chúng phải điện hỏi xem có bộ binh chốt bến không, khi biết có chúng mới dám lên. Chính sự co vòi lại này của bọn chiến xa đã giúp cho phong trào du kich trong tỉnh hoạt động có hiệu quả hơn... Cái được thứ hai cũng lớn không kém là xóa đi sự ám ảnh về tính “bất khả chiến bại” của tụi thiết xa trong anh em chiến sĩ. Sau trận đánh, tâm lý mọi người được giải tỏa hẳn vì biết chắc rằng: Thiết xa vẫn có thể thất bại, thậm chí để chiến thắng chúng không đến nỗi quá khó... Còn cái được thứ ba...
Ông cười hà hà, tiếng cười nghe thật trẻ trung...

Thứ Hai, 18 tháng 1, 2010

Thơ Phong Tâm

Giọt xuân

Cỏ sương sấp ngửa phận nguời
Nắng phơi vạt nắng đêm vùi bóng đêm
Lá rơi nhẹ tiếng rơi mềm
Uống xuân đắng giọng miệng thèm giọt xuân
Người thương một nửa người dưng
Lạ quen đôi lúc chưa từng lạ quen
Miên man nổi miên man chim
Thả trôi trôi tận nỗi niềm biển đông
Thênh thênh một đồi trán trong
Mà xây chưa lấp bụi hồng phù vân

Thứ Ba, 5 tháng 1, 2010

Đòn nhồi

Đầu tháng mười (năm một chín sáu lăm) , Tám Vị bàn với Ban chỉ huy Tiểu đoàn:
- Muốn thực hiện được kế hoạch phá rối không cho địch bắc lại cầu Chẹt sậy của Tỉnh ủy giao, tiểu đoàn cần bố trí vài khẩu cối 82 tại doi đất Nhơn Thạnh. Hễ nghe tiếng búa máy của địch, ta lại bắn sang đó mấy traí đạn. Chắc chắn cha con tụi nó sẽ chạy như vịt, rồi thôi ta ngưng, không bắn nữa, nhưng hễ cứ nghe tiếng búa ta lại bắn... trêu tức tụi nó như vậy, một mặt chắc chắn tụi nó không làm được cầu, mặt khác nhất định chúng xua quân sang để dẹp mấy khẩu cối đó. Ta sẽ bố trí đánh tập kích chúng một trận tại đây...
... Hơn một tuần sau, tại dinh tỉnh trưởng Kiến Hòa có cuộc họp giữa trung tá Tỉnh trưởng, đại úy Tiểu đoàn trưởng Biệt động quân số 41 của Vùng Bồn chiến thuật và đại úy kỹ sư chỉ huy Tiểu đoàn Công binh đang làm lại cầu Chẹt Sậy...
Viên trung tá tỉnh Trưởng nóng nảy:
- Tình hình những ngày gần đây cho thấy; Việt cộng quyết tâm không cho ta sửa lại cầu Chẹt Sậy, mà cây cầu này là huyết mạch nối tỉnh lỵ với Giồng Trôm, Ba Tri nên bằng giá nào ta cũng phải sửa lại cho được. Tôi đã trình với Tư lệnh Vùng và được sự ủy nhiệm của thiếu tướng Tư lệnh. Vì thế tôi ra lệnh ngay ngày mai Tiểu đoàn Biệt động sẽ vượt sông Bến Tre sang đẩy lực lượng Việt cộng ở doi Nhơn Thạnh ra khỏi khu vực đó để chúng không thể lợi dụng địa hình phá kế hoạch làm cầu của ta...
- Rõ, thưa Trung tá – Đại úy Tiểu đoàn trưởng Biệt động đáp.
- Còn Công binh – viên trung tá tiếp – ông Đại úy hôm qua đã đưa ra ý kiến dời vị trí cầu vào sâu phía trong độ 500 mét để khuất bớt tầm xạ kích và cự ly đạn thẳng của Việt cộng. Tôi đồng ý nhưng liệu có kéo dài thời gian vì phải khào sát địa hình nơi đặt càu mới?
- Trình Trung tá, trước đây ta đã có kế hoạch dự phòng nên toàn bộ địa chất khu vực từ cầu cũ đến cầu mới đã được khảo sát sẵn từ trước nên bây giờ vấn đề đó không cần đặt ra nữa...
- Tốt! Vậy cả hai công việc cứ thế tiến hành đồng thời ngay...

*
* *

Tám Vị đưa cây que nhỏ chỉ lướt trên mặt sa bàn:
- Như vậy kế hoạch dụ cho địch đưa tiểu đoàn Biệt động sang Nhơn Thạnh của ta đã thành công. Hiện tại mấy mẫu vườn dừa và cây ăn trái của vùng này đã bị đốn trắng như các đồng chí đã thấy trong lần điều nghiên vừa rồi. Tiểu đoàn địch đóng rải theo hình chũ xê (C) từ đình đến đây, đây là Ban chỉ huy tiểu đoàn địch, đây là một đồn mới địch vừa xây xong... Rõ ràng kẻ địch không chỉ muốn giữ không cho ta phá việc xây cầu mà còn muốn đẩy ta ra xa vùng này để khống chế tuyến sông xung yếu này. Vì vậy việc đánh tiểu đoàn Biệt động đối với chúng ta càng trở nên quan trọng.
Sáu Chung điềm đạm:
- Với lực lượng địch như vậy, ta có chắc tiêu diệt được chúng không?
- Báo cáo đồng chí Tỉnh đội phó, tôi và anh Chín Võ đã bàn kỹ: Tiêu diệt hoàn toàn thí tụi tôi chưa dám hứa chắc nhưng đánh tiêu hao nặng thì chúng tôi làm được.
- Được đồng chí trình bày tiếp kế hoạch tác chiến đi.
Tám vị lại đưa cây que chỉ từng điểm trên sa bàn:
- Kế hoạch chúng tôi vạch ra là đánh hai trận kế tiếp trong cùng một đêm. Trận đầud9anh1 tập kích, toàn tiểu đoàn tham gia: đây là vị trí đại đội một, đại đội hai, đại đội ba. Đây là vị trí Ban chỉ huy Tiểu đoàn, đại đội hỏa lực... Do bất ngờ và do đêm tối nên địch sẽ không chống cự được lâu nhưng chắc chắn chúng sẽ lùi ra mé sông và ém lại đó, chờ sáng sẽ tập trung lại và tái chiếm. Vì thế tôi đề nghị khi Tiểu đoàn rút đi sẽ để lại một trung đội tăng cường (lựa chọn những tay súng thiện chiến nhất của một đại đội, có các cán bộ đại đội trực tiếp chỉ huy) để sáng ra, đánh nhồi thêm một đòn cho tụi nó tởn (đây là trận thứ hai). Đánh thế mới đập tan được ý địch đẩy ta ra xa vùng này của kẻ địch...
Cuộc họp bàn kế hoạch tác chiến trở nên im lặng hẳn... Một lúc sau, Năm Bé – chính trị viên đại đội ba – mới lên tiếng ngắn gọn:
- Dánh như vậy có mạo hiểm quá không?
Tám Vị chắc chắn:
- Mạo hiểm thì có mạo hiểm đấy. Nhưng nhờ vào yếu tố hoàn toàn bất ngờ, tôi tin kẻ địch sẽ không chống cự được và chắc chắn sẻ thiệt hại nặng bởi đòn nhồi này.
Ngừng một chút anh tiếp:
- Tiểu đoàn đã bàn kỹ, sẽ giao cho đại đội 2 đanh trận thứ hai. Tôi đề nghị các cán bộ đại đội2 là Ba Tích và sáu Phong trực tiếp chỉ huy trận đánh...
Ba Tích cười cười xoa cằm:
- Mấy cha chơi vậy coi sao được. Đánh xong mấy cha rút, đẻ tụi tôi lại cho tụi nó thịt cho ngon sao chớ? À, mà tui coi đánh mửng đó chắc ngon đó anh Tám, đến ông nội tụi nó cũng không thể ngờ mình gài lại một đòn hồi mã thương như vậy. Mà không biết từ trước tới giờ đã có ai đánh theo cách đó chưa cà??...
... Bộ đội lặng lẽ chiếm lĩnh trận địa trong mưa, cơn mưa rớt đầu mùa khô không lờn nhưng cũng nặng hạt. Đêm tối đen, trừ khi có những tia chớp rạch những lằn ngang dọc trên bầu trời mới thấy những mái tăng của địch sùm sụp đó đây trên mặt đất. Phía đại đội 2, Ba Tích đang nấp sau một thân dừ cùng cậu liên lạc trẻ măng. Anh đang tập trung quan sát kẻ địch ở phía trước. Một ánh chớp lóe lên, Ba Tích giật mình: vừa rồi một phần do không lưu ý, một phần do đêm tối anh đã không phát hiện ra ngay trước mặt mình, cách chừng vài chục thước, ở bờ mương bên kia, một khẩu trung liên của địch đã được bố trí từ trước. Trời mưa nên khẩu súng được trùm kín mít, nhờ ánh chớp mới thấy được cái nòng thò ra ngoài. “Chết cha, nếu không phát hiện được thì khi tấn công sẽ nguy hiểm lắm!”. Vừa suy nghĩ, Ba Tích vừa bấm bấm vào tay cậu liên lạc nói nhỏ: “Mày bò tới trung đội ba, bảo thằng Tân cho một tổ ba người bí mật áp sát khẩu trung liên, phía dưới mương, khi hết loạt pháo chuẩn bị là xông lên khống chế nó ngay cho tao!”.
... Ba giờ kém năm, liên lạc đã báo cáo đầy đủ về Tiểu đoàn: toàn bộ trận địa đã chuẩn bị xong... Đủng ba giờ, tiếng súng cối 60, 82, DK75 đồng loạt gầm lên nhả đạn vào trận địa địch. Nhiều tiêng1 la hoảng hốt vang lên khắp khu vực của tiểu đoàn Biệt đông số 41 vôn đang chìm trong giấc ngủ nặng nề: “Việt cộng!... Việt cộng...!”.... “Việt công ở đâu!... “. Rồi tiếng hô xung phong vang dội cả một góc trời của bộ đội đang ào ạt xông lên... Từng tốp lính địch ngã gục trong áng sáng của những chiếc lều bạt đang bốc cháy... Sau ít phút kinh hoàng vì bất ngờ, quân địch tổ chức phòng ngự theo từng khu vực hiệu quả hơn... Pía đại đội 2 tình hình có vẻ phát triển thuận lợi do ngay từ đầu đã khống chế được khảu trung liên ở vị trí trọng yếu và dùng nó quay lại uy hiếp quân địch phía đối diện. Các chiến sĩ dễ dàng phát triển theo chiều sâu, chia cắt đội hình địch và đẩy chúng lùi dần... Ở phía đại đội 3, bộ đội bị chững lại dưới hỏa lực mạnh của hai khẩu đại liên địch, một ở trong đồn, một ở ụ mối lớn cách đó chừng ba mươi mét đang bắn chéo cánh sẻ ác liệt về phía quân ta. Bỗng một phát DK75 bắn trúng ngay lô cốt địch, khảu đại liên trong đồn im tiếng, nhưng khẩu ở ụ mối vẫn bắn ra dữ dội. Làn đạn đi cách mặt đất chừng hơn nửa thước ngăn chặn hiệu quả mũi tấn công... Mười Hùng hét to: “Phải diệt cho được nó! Hải đâu, dùng cây trung liên chia lửa cho thằng Tâm, đưa cây Trom – lông lên... ‘. Một tia lửa chớp nhoằng lên trong đêm, một tiếng nổ “ầm”. Kảu đại liên tắt ngấm, bộ đội tràn lên... Hướng đại đội 1, tình hình diễn ra theo thế giằng co khá lâu. Lợi dụng khoảng cách giữa hai bên là một đoạn mương khá dài và sâu, tên trung úy đại đội truởng tổ chức đánh trả khá hiệu quả. Hắn đang la lên với lính: “Đánh, dứt khoát không rút, đánh cho Việt cộng biết thế nào là lính Biệt động....”. Năm Vô sốt ruột, bò lại chỗ Việt, trung đội trưởng trung đội ba: “Cậu lấy hai cây trung liên và một tiểu đội tách ra, vòng về mé phải mương, qua chỗ cây cầu khỉ kia ra phía sau, cho nó một mũi vu hồi... nhanh!”. “Tiểu đội 3 theo tôi!”, tiếng Việt ra lệnh, nhỏ nhưng đanh gọn... Mấy phút sau, tiếng trung liên gión giã từ sau lưng bọn địch... Tên trung úy đại đội trưởng đỏ ập xuống... Phòng tuyến địch rối loạn rối mạnh tên nào tên ấy chạy. Bộ đội vượt nhanh qua mương lao tới...
... trên toàn trận địa, sức chống cự của địch yếu dần. Chúng lùi dần ra bờ sông. Tám Vị ra lệnh: “Pháo chuyển làn ra mé sông!”... Từng loạt đạn pháo dựng hàng rào ngay sát mé sông. Những xác người, những khẩu trung liên tung lên trời rồi rơi xuống trông rõ trong ánh lửa đạn và trong ánh chớp trời... Năm phút sau Tám Vị dập tay: “Dừng! “, tiếng pháo ngừng hẳn. Lúc này trận địa chỉ còn rải rác vài ổ đề kháng nhỏ còn chống cự nhưng rồi cũng nhanh chóng bị dập tắt. Bốn giờ sáng, toàn bộ trận địa trở nên yên lặng, liên lạc báo cáo về tiểu đoàn: “Ta đã hoàn toàn làm chủ trận địa. Địch không còn sức chống cự, nhưng không rõ thương vong vì trời tối quá. Ta thu một GRC.9, bốn trung liên, một đại liên và một số vũ khí nhẹ khác... Dại đội 1 bị thương năm hy sinh hai, đại đội 2 hy sinh ba bị thương ba, đại đội ba hysinh ba bị thương một...”. Tám Vị ra lệnh: “Chuẩn bị đưa thương binh tử sĩ đi trước, toàn tiểu đoàn rút khỏi trận địa. Riêng Ba Tích, Sáu Phong và trung đội đã dự kiến tụt lại tiến hành theo kế hoạch đã dự định...”
Trời mờ sáng, vẫn còn lay phay mưa... Tiểu đoàn theo đội hình hành quân trên đường rút về Lương Phú. Từng loạt pháo địch từ Trúc Giang, Giồng Trôm bắn theo họ suốt trên đường. Thỉnh thoảng bộ đội lại phải tản đội hình để tránh sát thương vì đạn pháo... Bến đò Mỹ Thạnh, pháo vẫn bắn về tới tấp... giữa sông, trên bờ. Trên đầu họ hai chiếc trực thăng vẫn bay vè vè sẵn sàng nhả đạn vào những nơi nghi có bộ đội ẩn nấp...
Tám Vị chỉ tay vào những cột nước đang dựng lên giữa sông, nói với Chín Võ:
-Đánh trận cả đêm qua mà không cực bằng từ lúc rút tới giờ. Khéo bọn Ba Tích ở lại lại nhàn hơn tụi mình, thằng chả dám đang cười tụi mình quá...

*
* *
Trời đang rạng dần, mưa đã tạnh hẳn. Trận địa im lìm, ngổn nang xax1 giặc. Đứa nằm ngay trên đất, đứa đầu ở trên bờ, chân thõng xuống mương, cũng có đứa nằm vắt ngang thân cây dừa mà có lẽ chính nó đã đốn ngã trong những ngày qua...
Một cuộc họp ngắn các cán bộ từ tiểu đội trở lên ngay trong lều bạt Sở chỉ huy Tiểu đoàn của địch (căn cứ trúng một quả đạn cối 82, nủa cháy nham nhở, nửa đổ xiêu xiêu, xác vien đại úy tiểu đoàn trưởng chết ngay trong trận hồi đêm đã được dọn đi). Ba Tích nói
- Trời đã sáng, bọn địch đêm qua chém vé ở bờ sông sắp sửa mò lên, tập hôp lại. Ta sẽ đánh cho chúng một trận nữa, cố tiêu diệt càng nhiều càng tốt. Đội hình của ta bố trí theo tổ ba người, cứ hai mươi mét một tổ, cũng theo hình vòng cung hướng ra bờ sông...
Tân – trung đội trưởng trung đội hai, bây giờ phụ trách tiểu đội một có ý kiến:
- Đề nghị anh Ba cho lấy thêm trung kiên và lựu đạn địch bỏ lại trên chiến trường để trang bị thêm cho các tổ. Hiện ta chỉ có bồn khẩu trung liên, tôi thấy hơi ít nếu muốn tăng thêm hiệu quả sát thương...
- Đồng ý, nhưng cần làm nhanh và giữ yên lặng. Khi phát hiện tên địch đầu tiên thì phải ngừng ngay, giữ bí mật trận địa...
Hải – tiểu đội phó tiểu đội ba – lên tiếng:
- Bọn này bây giờ chắc chảng còn tinh thần đánh đấm gí nữa đâu!
Ba Tích chín chắn:
- Bọn địch tưởng ta rút hết rồi, sẽ rất chủ quan nên bị ta đánh bất ngờ, chúng rất dễ tan tác. Nhưng cũng đề phòng một số tên bị dồn quá sẽ liều chết chống cự... Thôi, nếu không ai có ý kiến gì thêm thì giải tán.
Một số chiến sĩ nhanh chóng đi thu vũ khí của địch nhu súng máy lựu đạn để trang bị thêm cho tổ chiến đấu của mình, rồi một sự im lặng chờ đợi căng thảng bao trùm...
... Tên lính đầu tiên xuất hiện... rồi tên thứ hai, thứ ba... Lúc đầu một vài đứa cũng có vẻ thận trọng, ngó tới ngó lui. Rồi chừng như chắc ăn chúng đứng thẳng lên bước dần ra phía trận địa, kêu réo nhau ơi ới: “Ê , còn những đứa nào nữa, ra đây đi...”. Tiếp đó nơi thì ba đứa nơi thì năm đứa, có nhóm gần cả tiểu đội... chúng tụm lại thành từng cụm khắp trên toàn tuyến, chuyện trò hý hố.
Có đứa chửi tục:
- Đ...mẹ nó! Việt cộng dữ quá. Gần như ngay từ loạt đạn cối đầu, ông Tiểu đoàn tuơng3 đã chết. Ông Tiểu đoàn phó định gọi điện về Trung tâm xin lệnh nhưng cái PRC 25 bị hư, không gọi được, thế là tất cả rối loạn...
Có đứa nói:
- Trung úy Hiệp, đại đội trưởng bọn tao cũng là thứ dữ, như Việt cộng còn dữ hơn. Tụi tao đang đánh ngon lành thì bị một mũi vu hồi chọc sau lưng, trung úy trúng đạn thế là tụi tao mạnh thằng nào thằng ấy chạy...
... Thằng Phúc liên lạc bấm bấm tay Sáu Phong:
- Có cả một thằng Mỹ nữa kìa anh Sáu!
Sáu Phong nhìn theo hướng Phúc chỉ. Quả thật có một thằng Mỹ cao lênh khênh, da đỏ au như da gà chọi đang đứng cạnh một thằng mang lon chuẩn úy. “Có lẽ đây là thằng cố vấn đi theo tiểu đoàn Biệt động này”, Sáu Phong nghĩ. Anh trả lời thằng Phúc:
Kệ mẹ nó, Mỹ mẽo gì chốc nữa cũng cho nó chết thôi...
... Ba Tích nhìn đồng hồ, bảy giờ kém mười lăm. Tuy vậy trời mùa đông, lại nhiều mây nên có vẻ chưa sáng hẳn. Lúc này bọn địch tập trung lại gần cả trăm tên, nhưng anh biết hãy còn nữa. Thấy các chiến sỹ có biểu hiện nôn nóng, anh ra lệnh truyến xuống:
- Chờ có lệnh mới được bằn.
Một lúc lâu sau, địch đã tập trung lại chừng hơn một đại đội. Có tên đã đốt lửa nấu nước uống...
Ba tích dằn giọng:
- Bắn!
Lập tức những khẩu đại liên, trung liên rung lên. Từng tràng đạn xối xả vào những tên lính đang hoảnh hốt ngỡ ngàng... Ngay từ loạt đạn đầu, nhiều tên đã đổ vật xuống như bị phạt ngang. Có đứa chết mắt còn trơng ngược vì khiếp sợ và vì ngạc nhiên giữa lúc tưởng đã mười mươi là thoát thì cái chết lại đổ ập xuốngbat61 ngờ...
Bọn địch la hoảng, xô nhau lại chạy dạt ra mé bờ sông... Tiếng hô “xung phong” của bộ đội lạ một lần nữa vang rền trong nắng sớm khắp doi đất Nhơn Thanh... Cũng đúng như dự đoán của Ba Tích: Một số tên liều chết tổ chức đề kháng lại nghưng nhanh chóng bị dập tắt ngat bởi những trng2 trung liên và những trái lựu đạn ném tới... Lại thêm một lần nữa, trên khắp trận địa xác giặc ngổn ngang, xác mới chồng xác cũ, máu cũ hòa máu mới đỏ đất... Trận đánh chỉ điễn ra trong vòng vài mươi phút... Trận địa lại im tiếng súng. Ba Tích cho tập trung quân, ra lệnh thu chiến lợi phẩm và nghe báo cáo về tình hình thương vong: Lấn, trung đội trưởng bị thương ở mắt, một chiến sĩ hy sinh, ba bị thương nhẹ... Anh cho lệnh bộ đội rút...
... Tieng1 pháo liền đưo6i3 theo sau lưng đoàn quan với những vũ khí chiến lợi phẩm lỉnh kỉnh trên người. Người thì hai khảu, người thì ba khẩu AR15, người thì carbin và M79, lại có người mang hẳn cả khẩu trung liên... sáu Phong hỏi Thàng Phúc:
- Ê Phúc! Thằng Mỹ lúc nãy có chết không máy?
- Không biết nữa, anh Sáu à! Mà cái thằng coi to xác vậy mà lanh hết biết nghe anh. Khi mình vừa tràn tới là tui đã thấy nó nhào ngay xuống con lạch nhỏ dẫn ra sông, tui xỉa theo một loạt nhưng nó đã khuất sau mấy bụi dừa nước...
Thắng, một chiến sĩ bị thương, băng ở tay chen vào ghóp chuyện:
- Tui nghe thằng Mỹ nó khóc quá trờ đi, anh Sáu!
Sáu Phong ngạc nhiên:
- Thằng Mỹ cũng khóc sao mày? Mà nó khóc nghe ra sao?
Thắng ngập ngừng:
- Thì nó khóc... cũng như người... người mình vậy. có điều nghe hơi cưng cứng...
Cả toán người đi quanh cười ồ...

*

* *

Tám Vị cười rất tươi:
- Trận đó ta đánh tiêu hao nặng Tiểu đoàn Biệt động số 41 cũa Vùng Bốn chiến thuật, diệt gần hai trăm tên. Mà điều quan trọng là tôi cứ nghĩ thuật nghữ chiến thật “nhả răng bừa” có lẽ xuất hiện từ sau trận dánh này của Tiểu đoàn 516.